Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

QUẢ NỮ TINH LINH.


                Hơn 30.000 năm trước, Hoàng tử Vessandara là một trong những tiền kiếp của Đức Phật. Theo truyền thuyết cổ xưa của Thái Lan thì Thượng Đế - Vua Trời Indra đã tạo ra 1 khu rừng ma thuật bao quanh nơi ở của Hoàng tử và gia đình để bảo vệ họ. Khu rừng nầy có tên gọi là Himmapan .Trong khu rừng nầy, đức Indra trồng 16 cây kỳ diệu có tên gọi là Naripon.Có hai lí do để giải thích vì sao Indra tạo ra những cây nầy. Lí do đầu tiên là nhằm vào những vị Thiên thần sa ngã trước những cám dỗ tình dục,họ sẽ bị thu hút để giao hợp với những nữ tinh linh của các cây thiêng nầy. Ngay lập tức sau đó những vị thiên Thần nầy sẽ rơi vào tình trạng hôn mê và khi thức dậy họ sẽ thấy rằng quyền năng của họ đã bị mất đi hoàn toàn! Lý do thứ hai là cũng nhằm để bảo vệ người vợ của Hoàng tử không bị sự quấy nhiễu tình dục của những vị thần sa ngã nầy.






                Trái của những cây thiêng nầy có tên gọi là Nakalipon, là những quả có hình dạng như người nữ với đầy đủ cơ quan trên thân thể. Đó là chuần mực của một người phụ nữ được thu nhỏ.

             Sau khi hoa của cây Naripon nở, nó sẻ kết thành nhửng chùm trái nữ quả. Những quả hình người nầy lơ lửng trên cây và có thể múa hát, nói chuyện cười đùa! Nhưng sau 7 ngày họ sẽ chết và teo quắt lại bằng kích thước nằm gọn trong bàn tay con người. Huyền thoại kể rằng những cây Naripon sẽ thực sự biến mất khi trên thế gian nầy chẳng còn một ai tin vào giáo lí của Đức Phật nữa.




               Một số nhà sư thì nói rằng cây Naripon đến từ 1 thế giới khác!

Nhưng có lẽ hai quả Nữ (Nakalipon) nổi tiếng nhất là của sư trụ trì Jarun ở chùa Ampawan Singburi. Qua nhửng thữ nghiệm của khoa học cho thấy chúng có tim, phổi và các cơ quan nội tạng khác …nhưng không có xương.Trong hai quả nữ nầy có 1 một quả có hình dạng như người bán nữ (Lady boy).





             Hình trên là 1 cặp trái Quả Nữ khô với chiều cao 6,5inch, có hình dạng 1 nam 1 nữ..của sư trụ trì chùa Thep sinhan. Trên lưng những quả nầy là các chữ bùa do chính tay ông viết. Ông được mọi người cho là 1 tu sĩ sống trong rừng phía Đông Bắc Thái và đã đạt đến trạng thái thần thông trong thiền giới của ông. Trong 1 chuyến đi du phương ông đã dùng thần thông lực của mình để triệu tập các Quả Nữ dưới một gốc cây thiêng Naripon nằm sâu trong rừng già.Những Quả Nữ nầy có thể hiện thực các yêu cầu như thu hút của cải trong kinh doanh và bảo vệ nhà -xưởng-cửa hàng.Nhưng cần phải cúng thí gạo,trái cây và nuớc uống thường xuyên cho các quả nữ.


               Một trong những người khách đã thỉnh Quả Nữ về nhà thuật lại rằng, sau khi đem những  về đến khách sạn và chúng còn nằm trong vali, họ đi tắm nhưng nghe tiếng Ti vi trong phòng khách đã được bật lên. Họ ra kiểm tra và không thấy 1 ai cả! Sau đó vị khách nầy về nhà tại Singapore ,lấy Quả Nũ ra khỏi vali thì đột nhiên Tivi được mở lên ngay trước mắt họ ! Họ rất là sốc nhưng cũng nhanh chóng hiểu là báo hiệu của Quả nử cho biết là chúng hiện đang có mặt tại đây!

              Để tìm hiểu rõ ràng hơn về cây thiêng Naripon-tiếng Pali là Makkaliphala-và những Quả Nữ tinh linh từ có xuất xứ từ đâu, chúng ta phải lần về câu chuyện tiền kiếp của Đức Phật.Vessantara Jataka là tựa đề về chuyển kiếp Bồ tát, thân cuối cùng của Đức Phật.vCâu chuyện nầy kể rằng trong kiếp quá khứ rất lâu về trước,vào thời kì hiện pháp của Đức Phật Vipassi,có một phụ nữ đức hạnh tên là Phussati chuyên cung cấp  lõi cây gỗ thơm đàn hương cho đức Phật. Sau 1 lần cúng dường cô đã phát nguyện được làm mẹ của 1 vị Phật trong tương lai,lời phát nguyện nầy đã được đức phật Vipassi thọ ký cho cô để thành sự thật trong tương lai.


             Sau khi đã nhận phúc lành nầy, về sau cô từ trần và được hiện thân trên cõi trời Tavatimsa, là Hoàng hậu của Vua trời Indra.Vua trời Indra biết được phát nguyện của cô trong tiền kiếp nên khi tuổi thọ của cô trên cõi trời sắp kết thúc…Indra lại ban cho cô mười điều phúc lành khác trong tương lai.Vì vậy nên Phussati từ cõi trời đầu thai xuống trần gian lúc nào cũng ở trong danh phận người phụ nử dòng dõi cao quí và luôn có chung cái tên là Phussati. Cuối cùng cô trở thành hoàng hậu của Vua Sanjaya, hoàng hậu không có con cái, nên lúc đó trời Indra mời Đức Bồ Tát hiện thai trong bụng của hoàng hậu. Điều nầy nhằm đáp ứng đúng với nguyện vọng tiền kiếp xa xưa của bà. Bà sanh ra 1 hoàng tử và người nầy chính là Vessandara. Đây sẽ là kiếp cuối cùng của Đức Bồ Tát tái sinh để hoàn thiện thiền định Ba la mật của ngài.

                   Sau đó khi hoàng tử cùng gia quyến (vợ là Madri, con trai là Chali ,con gái là Ganha) bị lưu đày, Indra đã sử dụng sức mạnh tâm linh của mình để tạo ra khu rừng ma thuật Himavana…là 1 địa danh cách không xa dãy Himalaya. Hơn vậy nữa, trời Indra tạo ra 16 cây thiêng Makalipon ẩn dật quanh đó.Việc đầu tiên giống như là tạo ra 1 câu đố về giáo pháp, nhắm vào các thiền sinh là chư Thiên Càn -thát -bà và những chư Thần khác định cư trong khu rừng nầy. Nếu họ không vượt qua được những cám dỗ của dục vọng , họ sẽ làm tình với những Quả nữ Makalipon xinh đẹp! Nếu họ làm vậy thì họ sẽ bị chìm vào hôn mê 4 tháng…sau đó tỉnh lại và không thể thi triển những thần thông của mình như trước! Việc thứ hai là để bảo vệ gia đình Hoàng gia của Hoàng tử, Madri là người vợ của hoàng tử sẽ tha hồ thong thả chọn hái những trái cây trong rừng mà không bị những vị thần quấy rối tình dục. Bởi vì tất cả ham muốn của các vị thần ấy đã bị các Quả nữ  từ những cây thiêng thu hút !

              Quả nữ Makalipon không nở theo mùa như những cây khác, nhưng nó chỉ đơm hoa khi nào nàng Madri vào rừng hái trái cây. Khi hoa đã nở sẽ kết thành những chùm 5 trái trong 1 khúm.Trong 3 ngày thì Quả Nữ Makalipon sẽ có dấu hiệu hành kinh của 1 cô gái đã trưởng thành. Sau đó họ sẽ hát và múa cả ngày trên cây để thu hút những vị khách có tính dục về phía mình, những thiền sinh đã mất thần thông không thể bay để hái quả nhưng họ có thể chờ đến ngày thứ tư, Quả Nữ sẽ chín và rụng xuống gốc cho họ nhặt. Chu kỳ từ trổ hoa cho đến kết quả chín rơi kết thúc trong 7 ngày. Người ta cho rằng hiện nay những cây thiêng nầy vẩn còn diện diện tại khu rừng Himavana,nhưng chỉ nhửng thiền sinh với mức độ nhập vào các tầng thiền mới có thể khám phá ra chúng,và họ sẻ tiếp tục có mặt tại nơi đó đến khi nào lời dạy của đức phật hoàn toàn không còn trên thế gian.Bên cạnh đó nhửng nhà sư trong nhửng chuyến hành thiền trong rừng xác nhận rằng củng đả từng thấy nhửng cây nầy.

               Chúng ta có thể thấy hai Quả Nữ Makalipon của sư trụ trì Jarun, 2 quả khô tóp nầy là của con trai 1 vị sư trụ trì chùa Lopburi ở vùng Himavana tặng cho ông. Đây là món quà từ tay của 1vị tu sĩ  hành thiền lang thang trong rừng mà nay đã qua đời. Bên cạnh đó thì 1 du tăng khác đã từng thấy 1 quả còn tươi mà ông giữ được trong 1 hang động trong vùng đồi Sigiriya thuộc Miến Điện. Ông nói rằng tại thời điểm đó Quả Nữ đã lớn lên trông như 1 cô gái 16 tuổi hoàn toàn khoả thân rất xinh đẹp! Nó có mái tóc vàng hoe và đôi mắt xanh nhạt …nhưng không phải là trông như người phương Tây. Nó có một cái nụ cuống trên đỉnh đầu tựa như trái măng cụt. Dường như nó bắt đầu phân huỷ và teo lại ngay từ lúc nó rời khỏi thân cây và khô lại.Cho chỉ còn đến bằng hình dạng bàn tay. Điều kì lạ là qua sự phát hiện của 1 bác sĩ (với sự đồng ý của sư Jarun) người ta thấy Quả Nữ vẫn có đầy đủ nội tạng như 1con người! Những Quả Nữ Makalipon nầy hiện nay còn đang được lưu giữ tại ngôi chùa Prangmuni.

               Ở Bangkok - Thái Lan, người ta cho rằng Makalipon là 1 thể loại nửa động vật và thực vật. Tên gọi Nakali hay Nari có nghĩa là  hoa trái và Pon là phụ nữ. Từ Naripon cũng có thể hiểu là người phụ nữ trong bông hoa.Những nàng tiên sống trong những bông hoa.

             Truyền thống khác lại nói rằng nhửng Quả Nữ nầy được sinh ra từ xung quanh cội cây mà hoá thân thứ 10 của Đức Phật đã ngồi thiền định. Họ đã cố gắng cám dỗ Ngài trong khi Ngài ngồi dưới những tán của cây nầy mà không hề quan tâm đến thế giới bên ngoài. Đến ban đêm thì họ leo lên cây để ngủ. Về sau nầy khi ngài đã thành đạo thì họ biến thành một loại sống kí sinh vào cội cây nầy. Họ là những tinh ba của thần rừng, được tạo ra để bảo vệ những giống dược thảo quí. Nhưng họ đã nhanh chóng lớn lên và xinh đẹp để đánh lạc hướng những người đi đến quả vị thánh. Quả Nữ sẽ xuất ra 1 mùi hương thu hút những nhà tu khổ hạnh, những vị thần Càn thát bà , làm cho họ phải tìm đến và giao hợp cùng Quả Nữ.

             Một mô típ khác có xuất xứ từ Inđônêxia , nó có tên gọi là Tuyul. Đây là ảnh chụp tại In đô nê xi a,người ta ví nó như là 1 dạng bóng ma của rừng ( Hantu):



             Tại Thái Lan, In đô nê xi a và cả Mê xi cô đều có những truyền thuyết gần giống nhau và thậm chí ở cả Châu Âu. Ví dụ như ở Mê xi cô, người ta có thể tạo ra những phỏng dạng gần giống như trên nhưng nó làm phương pháp tiểu thủ công với lau, sậy và lá ngô.

            Huyền thoại Mahalipon nầy có khá nhiều người tin là có thật. Một số người đã dùng Quả Nữ Maripon để thờ ,các Pháp sư lại dùng nó để điều khiển tâm linh tác động lên các ngoại vật và sự kiện để tạo ra hiện tượng.


Những Quả Nữ được thờ trong các lọ dầu thơm đặc biệt

              Nhiều người tin rằng nó là thực tế vì họ đã từng trông thấy nó khi du hành xuyên qua nhiều địa phận đến Ấn độ .Mặt khác lại có người cho rằng Quả Nữ ấy thực chất chỉ là 1 giống khoai lang mọc duy nhất tại đất Lào,nó có tên là Kling kang Dong, nó được khắc tạo cho giống như hình dạng 1 phụ nữ khoả thân để nhằm làm đẹp cho truyền thuyết về văn học!

             Tóm lại,câu chuyện Quả Nữ Makalipon có thể là có thật đối với một số người,hoặc là nó chỉ là huyền thoại không hơn kém !Ta nên xem nó như 1 câu chuyện đạo đức dành cho những ai muốn thực hành thiền định. Nó chỉ ra cho ta thấy rằng vì đam mê cơ thể người phụ nữ mà hành giả có thể mất đi công phu thiền sau 1 thời gian dài huân tập.

              Và Himavana chính là tên của khu rừng thiêng vô hình có tên gần giống như Himalaya (nơi ở của tuyết)…nó vô hình với mắt của con người và không thể nào tiếp cận khám phá nó! Truyền thuyết tôn giáo Á Châu nói khu vực nầy có 84.000 đỉnh và 7 ao lớn! Đây là khu vực dưới tầng trời ,tập trung tất cả linh thú huyền thoại như Kỳ lân (Rajasri)-Kim xí điểu (Garuda) - Hồng hạc (Hongsa) và cả Naripon (Quả Nữ)……Trong thực tế, những Linh vật nầy được cho là đến từ trí tưởng tượng của các nhà Văn, học giả, nghệ sĩ với cái nhìn theo bản thảo cổ xưa mô tả. Tất cả đã kết lại thành 1 huyền thoại văn học tôn giáo sâu xa và không kém phần lãng mạn.

(TÀI LIỆU THAM KHẢO:- Bài báo trực tuyến, http://www.cyberspaceorbit.com)






Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

PHÉP LUYỆN CÂY CHUỐI HỘT THÀNH TINH LINH.

  
           Phép nầy mổi nơi đều có cách luyện gần giống nhau,chỉ khác nhau 1 ít tiểu tiết, tuy nhiên nhũng tiểu tiết ấy hết sức quan trọng, vì nó có thể quyết định thành công hay không và thành công ở cấp độ nào.

             Luyện cây chuối thành Tinh Linh thì nhất định phải là cây chuối Hột, cần phải luyện vào mùa nắng, mùa mưa sẽ rất nhanh bỏ lở nửa chừng vì rất nhiều lí do.

            Đầu tiên người luyện phải là nam nhân và từ 17 tuổi trở lên, đến khi ai đả cạn tinh khí thì không thể luyện phép nầy,ví dụ như nam nhân quá già yếu thì không thể.

            Con trai chưa vợ và chưa từng giao hợp (đồng nam) thì tỉ lệ thành công rất cao, hầu như mĩ mãn. Nói vậy chứ người có gia đình rồi cũng vẫn có  thể luyện , nhưng mức độ giao thoa linh ứng thì sẽ không như người còn độc thân.

             Ở đây chúng ta nói rõ về vấn đề luyện cây chuối thành tinh linh,chứ không phải luyện có dính líu đến những hồn ma hay con tinh ở những bụi chuối rừng. Vì ở gần bìa rừng có những khu rừng chuối có ẩn chứa nhiều hồn ma hay tinh mọi, tinh rừng nương náu (xem truyện "Ma giấu"). Nếu luyện theo những phần hồn nầy làm âm binh thì tỉ lệ nguy hiểm khá cao cho người luyện. Hậu quả có thể dần đến khùng điên-đi hoang!.. Đó là phương pháp luyện binh mọi, binh rừng…không cần phải là cây chuối hột, mà bất kì khu vườn chuối nào cũng có thể dùng được….miễn là ở đó có ….ma!

               Trở lại vấn đề cây chuối hột cho khỏi lạc chủ đề. Ta phân biệt cây chuối hột bằng đốm nhỏ nâu đỏ trên thân cây chuối.Ta muốn luyện nên bắt đầu vào tiết xuân hay hạ, hay cuối mùa mưa là tốt nhất ….khi luyện rất cấm kị thời gian trời đổ sấm chớp …trăm phần là hỏng việc không thể tránh khỏi vậy.

                Bài viết nầy không nằm dưới dạng 1 câu chuyện,nó nhằm hiện thực lại cách luyện sao cho thành công theo đúng trình tự dành cho hành giả Huyền môn…nên văn sẻ thô ,nhưng nó đi thẳng vào chi tiết cần thiết.

                 Đầu tiên ta cần phân biệt rõ là luyện cây chuối hột để làm gì ? Cơ bản cổ truyền thì có 2 thể loại. Một là luyện cho nó thành Con Gái Nuôi của mình, nó sẽ mách bảo hay làm giúp mình 1 số việc đơn sơ nho nhỏ…tuỳ ý mình sai bảo. Hai là luyện nó trở thành Ý Trung Nhân chăn gối …tức là vừa là người bạn tình và bạn thân .Cách thứ hai đòi hỏi chi tiết hơn cách đầu 1 chút , và di hệ về sau cũng trầm trọng hơn .

                Bước vào đầu tiên ta phải chọn cây chuối hay khu vườn chuối vắng vẻ ít người qua lại,mà chỗ nầy nhất định phải nằm phía sau nhà ở của hành giả . Cho dù gần hay xa cũng vậy. Nhất định là phải ở sau lưng nhà. Nếu vườn chuối ở trước nhà hay bên phải , bên trái đều luyện không hiệu quả…Hãy chú ý thật kĩ điều nầy trước khi chọn lựa.

                Đến đây thì nhửng bạn nào là Nữ hay là những bạn quan trọng gia phong tập quán không nên xem tiếp nữa….Phần sau đây chỉ dành cho hành giả thực sự không câu nệ và muốn đi vào thực tiễn của huyền môn…..Vì vậy …xin các bạn nữ độc giả và những bạn đọc Danh môn Chính phái hãy chuyển qua trang khác từ ngay đoạn nầy.

              Bước một -cần xác định rõ vị trí cây chuối ở đâu, lựa cây chuối thật già, đã lấy quài chuối thu hoạch xong…ta phải đốn cây chuối ấy đi,chỉ chừa lại phần gốc cao độ 2 tấc mà thôi, moi cho hủng phần gốc lõi cây chuối như hình cái chén ăn cơm ….sau đó lấy lá chuối hay lá dừa đậy kín cái hỏm ấy lại ….đừng cho ai biết hay nhìn trong suốt quá trình luyện phép .

               Bước hai - buổi sáng ra đồng cho sớm , đi chân không, không có đồng thì ra rẫy trồng cũng được, chờ khi mặt trời mới nhú lên, định phương hướng bằng cách đứng trực diện mặt trời, muốn luyện thành con gái nuôi thì đứng xoay qua tay phải mặt trời , tức là phía  Đông Nam. Muốn luyện cây chuối thành ý trung nhân thì day qua tay trái mặt trời tức là Đông Bắc. Đứng yên độ vài phút ,trong lòng nhủ thầm: “Xin cha Trời mẹ Đất cho con cái đất để làm phép cho có …vợ..hay con gái …để bớt hiu quạnh”…sau đó lại tự nhủ thầm: ‘ Ừ , xin thì cho , muốn thì có, có nhớ lo cho tốt, đừng để bơ vơ về sau" (cái nầy có thiệt , vì nếu sau nầy hành giả để nó bơ vơ không chú ý ,thì mình cũng bị bơ vơ giữa mọi người luôn !)

             Xin xong thì khom xuống móc cục đất bùn nằm trong khe ngón chân cái , bên chân phải…cục đất ẩm lớn cỡ 1 viên pin đại là đủ rồi….Kiếm bụi rậm gần đó chui vào, nhớ đừng để người hay thú vật ngó thấy ….Nếu luyện làm con gái nuôi thì cắn đầu ngón tay út bên phải cho 3 giọt máu vào cục đất mà nhào bóp….nếu muốn luyện ý trung nhân thì cho tinh trùng của mình vào đất nhào nặn (lúc lấy tinh trùng nếu nghĩ về người con gái nào thì sau nầy tinh linh sẽ lấy dạng như người con gái ấy! Giống đến 70 phần trăm !)

                Sau đó nắn cục đất có dạng con người phụ nữ hay con gái nhỏ đứng chấp 2 tay ,không cần làm cho đẹp ,chỉ cần có cái dạng đơn sơ là đủ, vì khuôn ảnh thật sự thì nằm trong trí hành giả rồi…..đem Thổ nhân ấy về để trong chỗ mát , đừng phơi nắng và cũng không cần kết quần áo chi hết (cần nặn đất cho thật dắn lại, tránh tình trạng sau nầy tượng bị rớt đầu ,sứt chân thì không hay )

                 Sáng sớm hôm sau ,ta đến chỗ cây chuối bị chặt ,giở những tàn lá che chắn ra, ta sẽ thấy nước trong veo đọng trong hủng của thân cây chuối, hãy lấy tay vốc uống ngay! Đừng ngại, vì đây là việc bắt buộc phải có và tính theo dược vị thì đây cũng là 1 bài thuốc mát rất hay và không hề có độc tính…..uống cỡ 3 vốc nước , vậy là từ nay ta đã có phần giao linh cơ bản với tinh linh chuối rồi….Kế đó lấy tay moi 1 cái lỗ dưới gốc chuối, nên dùng tay hay là dùng que cây ,không nên dùng dao bằng kim loại, có thể dùng miểng sành mà đào….sâu độ hơn 2 gang tay, cho Thổ nhân vào lỗ ấy rồi lấp đất lại…lấp rồi lấy bàn tay xoa đi xoa lại trên chỗ ấy ,trong lòng thầm gọi: “Ôi….con gái ơi (hay Nàng ơi) mau mau đủ tháng, đủ ngày về với ba (với anh).. ở đây ngày ngày đêm đêm ba (anh) vẫn đợi mong nàng!”….Gọi vài lượt rồi cứ thủng thỉnh mà đi về nhà…đây là tới giai đoạn khoẻ nhất ,không cần thắp nhang hay niệm chú gì, mà cũng không cần phải ra chổ cây chuối hàng ngày.

       Đầu tiên phải niệm bài viễn tích Ba Tiêu 1 lần, kế là bài Chuyển Động Ba Tiêu 1 lần,…2 bài nầy đọc trong 3 hôm đầu ,về sau chỉ đọc Chánh Thần Chú để luyện mà thôi .
      Nói về hai bài trên đọc hơi sai chữ chút đỉnh vì xưa nghe đọc mà ghi lại, nhưng ý bài thì khá rõ, nếu đã luyện thì nên đọc cho đủ, đừng thấy dài mà bỏ dở , làm tiếc cho công ngày sau.

Bài Viễn Tích Ba Tiêu 
- Sắc câp triệu tam thiên thị sử,
- SĂC câp triệu tam thiên thị sử - nởi thuở xưa nàng ở giang tâu - luc trươc thì chưa rõ đuôi đầu - tự tạo thiên lập địa - tự nẩy mầm tươi tôt - bèn ngả nghiêng xuống chúng gian trần - nước nổi lên chảy mạnh rần rần - trời đã tối tạm qua ải ngoại - trời xem thế ông bèn ngó lại - xem cho tường ghé lại trong lòng - thấy lá cây xem đã mạng vong - xem dưới gốc còn trông tươi tốt  - lại ló mầm mọc ngó chung quanh - trời đã bỏ đi nghỉ lại trong đành - lại mới nhổ đem về trồng thử - đất Nam Việt có cây đại sự - để hầu xem thử kiết hung - trời có lòng phân đất bồi vung - lâu ngày mới xanh cây trổ lá - tôi xem thấy mỗi ngày 1 lạ - thật ngọt thay bấc đáo trổ lên - tôi đã thấy ngòi ra 1 bên - tính xem thử làm sao cho biết - chuối đả thấy trong lòng thảm thiết - mới hiện hình sự thiệt xem hoa - chạt dùng mình sợ nổi quỉ ma - chuối đả nói tôi là tiên nử - thưa cho ông tường tận trong đầu - ơn ông rày chẳng khác mẹ cha.


Bài Chuyển động :

-tôi trôi nổi chốn giang hả-nhờ ông sôt đem về nuôi dưỡng-tôi chẳng phải là người phàm tục –vì tiên nương đày đoạ phàm trần-lấy nước tiên cứu chúng vạn dân -lời tôi đã bày phân sanh tánh –tôi trở lại gia đình mới hiểu-có pháp sư đến triệu tôi về-nàng hoá ra 1 nàng tiên nữ-pháp sư mới bài tường sự thật-nguyện cùng nhau kết nghĩa bạn vàng-dẫu tử sanh cũng nguyện theo thầy-phòng có bịnh cứu nhân độ thế-nàng đã là gái trung trinh liệt nữ- tuổi 13 vẹn giữ 1 lòng - ngày ngày luyện tạc võ văn –đêm đêm lại chơi hoa giỡn nguyệt-mẹ là đất trong lòng rũ riệt-thai nghén nàng năm Sửu mới sanh-thọ âm dương nàng mới hiện hình-dư thập ngoạt mới sanh buồng trái-nước thiên sanh rải rắc-để độ kẻ phàm trần-thiên thượng thiên dụng lấy lưỡng phân -dưới hạ giới dụng làm bực thực-nàng là gái đồng tâm hiệp lực-nguyện cùng nhau kết nghĩa bạn vàng - dẫu tử sanh cũng nguyện theo anh-dầu sanh tử có nhau giúp đỡ-gặp bịnh ngặt nghèo anh đây mới cậy-khuyên tiên nương bịnh ấy giữ gìn-nghe sư kêu nàng lại hiện hình-cứu thế, bớ nàng tiên ơi!


Bài chánh luyện.

“-sot cha nu phi nàng ê u pho chu năng cha chum buôn phum sa côp ki chu năn cô cà chộp ,chơn rô y u ê u ế sa ka .
- phich ni phô xô cà na mi xa phun chơn nghe nây rục tà ton sup phê rô săn khe mê hề xá khe .phum châm phi ka sum.”

                 Ta cứ sinh hoạt bình thường ,nhưng chỉ tuyệt đối không ăn những món có cây chuối hột, tốt nhứt là nên cử ăn những món như thân chuối hay bẹ chuối bào làm gỏi, còn nếu ăn chuối sứ thì nên bẻ trái chuối ra xem có hột không rồi hay ăn. Cứ vài hôm ta lại ghé xem cây chuối đã nhảy con mới chưa…thời gian sau đó ta sẽ thấy bên cạnh gốc chuối bị đốn sẽ nẩy lên chồi non của cây mới ,,,,cứ yên chí đợi cho nó lên vượt hơn đầu gối thì bắt đầu vào chu kì khổ công hơn.

                Vào đêm trăng tròn hay gần tròn thì bắt đầu là tốt nhất, đầu tiên lấy miếng giấy vàng mỏng lớn độ bàn tay vẽ bùa sau đây. Mực vẻ bùa là tóc của chính mình đốt ra hoà máu trên mồng của con gà trống (chỉ 1 lá bùa nầy thôi , dùng cho cả 2 việc luyện con hay luyện người yêu-còn tóc chỉ dùng độ 1 nắm đốt ra là đủ…chỉ có chút tàn đen kết lại, bóp nó vụn ra-máu mào gà trống độ hơn mươi giọt là đủ, hoà vào. Từ nay về sau không được giết thịt con gà nầy, phải nuôi nó cho đến nó tự chết, nếu tự nó đi đâu mất thì thôi,không sao hết) lấy 1 cây đũa tre ăn cơm vót đầu cho nhọn, rồi đập dập đầu nhọn ấy ,ta có cây bút chấm để vẽ bùa….bùa vẽ không cần đẹp và chuẩn, chỉ cần đủ nét và nín thở …hay là thở thật nhẹ trong lúc vẽ, tránh nói chuyện hay hắt hơi khi vẽ, cần tập trung hết thần trí vào lá bùa.
------------

                   Vẽ xong thì hà hơi thở của mình vô 9 lần ,dùng 2 bàn tay xe bùa (chớ không phải xếp lại) lại thành như điếu thuốc rê. Chọn 1 sợi chỉ thật to cho chắc, loại dụng để đan lọng là tốt nhất,chỉ màu Đỏ là truyền thống ,không có thì màu trắng cũng không sao…không có nữa thì xé áo cũ của mình mà xe lại thành dây – dài độ 1 dang tay của mình-dùng sáp ong hay sáp đèn mà vuốt chỉ cho chỉ lâu mục (cái nầy quan hệ lắm )

                  Từ khoảng 9 đến 12 giờ khuya ,lúc nào cũng được, im lặng ra cây chuối , dùng dao bằng cật tre hay que nhọn đâm vào thân cây chuối mới lớn , nhét cho trọn bùa vào…xong có thể lấy lá chuối khô bó lại chổ ấy , kế đó cột vòng sợi chỉ vào gốc cây , gút lại 3 lần nín thở, đầu kia của chỉ quấn vào ngón cái bên phải của mình 3 lọn (đừng có gút).
               Rồi bắt đầu nằm hay ngồi tuỳ ý, 2 tay ve vuốt và ôm cây chuối niệm thần chú , cứ niệm thì thầm trong lòng và làm động tác âu yếm như cha với con hay chồng với vợ ….thinh thoảng lại nói vài câu thân mật với cây…tác như vậy độ 20 phút là đủ…rồi nằm cạnh cây mà ngủ….muốn ngủ tới đâu tuỳ ý …hay độ nửa giờ cũng đủ…nhưng cái cần là phải thật sự buông hết tâm trí ra mà ngủ …đừng suy tính gì hết .

                     Cứ mỗi đêm tác thì tốt, không thì 3 đêm 1 lần cũng được…không cần đốt cây nhang nào! không cần cúng bất kì món nào ! nếu có thì đó không phải là luyện tinh linh chuối ! Đọc chú thì hít cho nhẹ nhàng dài hơi cho đầy phổi , rồi niệm xì xào thầm thì ra cho đừng ngắt quảng, nhớ không để răng cắn lưỡi,chạm nhè nhẹ vẩn không sao.Tư thế tốt nhất là ngồi xếp bằng ôm cây chuối , 2 chân kẹp vòng lấy thân cây , tư thế nầy luyện là đúng nhất ,vì so giữa mấy trường phái luyện cây chuối đều ngồi kiểu nầy.
                   Khi về thì tác ý nói với Chuối là mình về nhà và hứa mai hay 3 ngày nữa sẽ ra thăm chuối ,sau đó cởi chỉ ở ngón chân ra cuốn lại nhét dưới gốc chuối lần sau ra lại lấy cột vào chân mình như cũ.
                Giai đoạn đến khi chuối trổ buồng là quan trọng nhất ,khi nó ra bắp rồi thì mình nên ghé thường xuyên hàng ngày với nó ,ban ngày thì vuốt ve và canh chừng đừng để ai chặt bắp chuối, ban đêm thì cần nhiều âu yếm hơn với nó.Giai đoạn nầy khi ngủ bên cây chuối sẽ thấy hình hài của nó ,dạng như bé gái 7-8 tuổi hay như cô gái 16 tuổi, đặc biệt là tóc rất dài và tay chân trơn láng mềm mại ,da trắng ,có mùi hương thơm như hoa trong sương sớm ….lúc nầy hành giả cố gắng đừng động dục tình, chỉ nên âu yếm mà thôi, vì nếu xuất tinh trong lúc nầy thì ngày hôm sau rất dễ bị lạnh và đuối sức .

             Bây giờ thì hàng đêm hãy mang theo 1 ít bánh trái cho con gái nuôi và hoa hay dầu thơm cho người tình……Nhưng thời gian nầy kéo dài không lâu bởi bắp chuối sẻ trổ buồng, lúc nầy là then chốt cực kì quan trọng! Có thể sẽ có trở ngại xảy ra cho hành giả, Một là ông thổ thần không đồng ý nên sẽ cho xảy ra chuyện như thấy rắn bò đến …thấy con nít đến moi đất mà chọi mình…thấy chó mèo hay con gì gần giống chạy đến cắn đứt sợi chỉ cột nối cây chuối và mình…lúc nầy cần bình tỉnh và tuyệt đối đừng mở miệng ra tiếng , chỉ nên chấp tay tụng bài thần chú sau đây (chỉ bài nầy mà thôi ! đọc bất kì bài khác là coi như tự phá vỡ thành quả của mình!)…tụng dăm ba 1 lát rồi mở mắt ra xem …sẽ không còn thấy gì hết …..và hai là thấy ông bà hay cha mẹ đã quá cố của mình đến la mắng ,muốn lôi mình đi ra xa cây chuối…trường hợp nầy cũng chắp tay niệm bài chú như trên …1 hồi sẽ không còn hiện tượng ấy nữa.

“ Căn pho ni hộ mạng xot xô ka rơ phum kây cho mi chup rô cập ra chu răn co (hộ mạng tên người đó)”
           Trở ngại cuối cùng và khó nhất là cơn buồn ngủ,vì còn giáp vài ngày là cây chuối trổ buồng bung bắp ,từ giữa khuya đến sáng nên ta không biết là ngày nào và lúc nào ! Nếu để lỡ dịp là hư hết công trình từ đầu đến nay .Cho nên cần phải tỉnh táo suốt bên cây mà niệm chú từ giữa khuya đến 5 giờ sáng trong những ngày cuối nầy. Nếu ta ngủ quên lúc cây chuối bung buồng ra là coi như hỏng hết !!!....Nhưng nếu đến gà gáy mặt trời lên mà cây chưa trổ buồng thì cứ an tâm mà về .Hôm sau cần phải thật cật lực ngó chừng.

                  Đây là điểm quan trọng tất yếu khi ta thấy cây chuối bung buồng, đầu tiên sẽ có gió và khí lạnh, rất là lạnh dưới gốc chuối truyền vô cơ thể mình đến run cầm cập. Cứ bình tĩnh mắt ngó buồng chuối và niệm chú liên tục……Thấy đó thì nghe tiếng nghiến ken két rất lạ như tiếng người kêu mình …như là _”Ba ơi!”...hay --_”Anh ơi!.”... đó là tiếng của bẹ bắp chuối bung quài chuối non ra …có người nghe tiếng nghiến nầy thì lại sợ quá ngất đi hay vùng bỏ chạy đến đứt chỉ là chuyện từng xảy ra !...cho nên ta phải thật là bình tĩnh…trong lòng đáp lại tiếng gọi ấy rằng_”Ba đây ,chờ con lâu lắm rồi,mau về với ba đi con !” hay là _”Nàng ơi ,mau về nhà với anh cho ấm thân hơn ở đây sương gió lạnh lùng…”

(Nhiều ông thầy dạy chơi trác học trò,vì sợ nó giỏi hơn mình nên chỉ nói là hứng lấy nước từ bẹ chuối chứa vào cái ve chai mà xức đi chài gái ! Chơi như vậy là thua ! vì chỉ sau vài lần xài là hết nước …mà chưa chắc lại linh nghiệm…về sau khi có con gái lại còn bị thấy con mình bị trả quả ôm bầu vô danh tác giả! cách luyện như vậy thật là phí công và mất đức!)

                 Giây lát ta thấy buồng chuối non bung ra rất kì lạ như có người chui ra từ bẹ bắp chuối và nước sẽ nhểu ra từ bắp chuối …ta cần phải há miệng đón lấy nuốt ngay những giọt nước nầy ! Đó là ta thành công 70 phần rồi ! Nước không nhiều …chỉ độ 1 vốc tay thôi, có khi nhểu từ từ ..có khi rất nhanh cái ào vài giây là hết …cho nên ta phải canh thời điểm đón nhận nó thật kĩ !....Sau khi nước không còn nhiểu thì ta mau tháo cái sợi chỉ trong ngón chân ra ….thu hồi sợi chỉ cho vào túi áo …và thủ sẳn 1 cái rựa cho thật bén ! Đầu tiên là chặt 1 nhát thực mạnh cho đứt lìa bắp chuối khỏi thân chuối (chỉ 1 nhát mà thôi,nhiều nhát không tốt về sau,cho nên cái dao hay rưạ cần phải nặng và thật bén mới được!)…Sau đó đốn ngay cây chuối cho tận gốc !...sau khi cây ngã rồi thì phải moi tìm ngay trong bắp chuối ..sẽ thấy cái tượng đất mà mình chôn vào dưới gốc chuối ngày trước ,nó nằm trong đó !...lấy sợi chỉ trước nay mình cột giao lưu ấy mà quấn vòng quanh thân của Thổ nhân …quấn theo chiều kim đồng hồ ,quấn đến gần hết chỉ thì mình nín hơi mà cột gút lại…..là xong. Thành công 100%! Chắc chắn !!!
                XIN CHÚC MỪNG!
                Hãy mau chóng cho tượng vào túi áo như ôm vào lòng ,vừa đi về vừa thì thầm như với con gái hay vợ mình.Từ ấy về sau đi đâu củng luôn giữ tượng trong túi áo , nếu không muốn mang theo thì hãy để trên 1 bàn thờ riêng cao ngang tầm bụng , để trong 1 cái hộp cây bằng sáp thơm và phủ 1 mảnh vải đỏ lên .Bạn nên nhớ là khi ăn cơm phải nhớ mời vợ con nuôi của mình nhé! Thậm chí khi ăn tiệc hay giỗ cũng vậy…nếu không đem tượng theo thì về phải mang quà về cho .Nói về sự cảm ứng với Tinh Linh chuối thì nhạy nhất có thể luôn nghe họ nói với mình bên lỗ tai phải…còn yếu hơn (do chặt mấy nhát mới đứt buồng chuối hay do không cây không trả tượng lại vì bị ông thổ lấy mất !)thì chỉ khi ngủ mơ màng mới thấy họ và giao tiếp với họ !....

                   Về kiêng kị với pháp nầy thì cử chửi thề , KHÔNG ăn các thứ tiết canh và sát sanh động vật, Không uống các thứ thuốc có Châu sa ,Thần sa và ngà Voi tán bột. Nếu phạm sẽ yếu phép đi nhưng không mất hẳn! Phép nầy không sợ bị thầy bùa ngải khác thâu mất ! mỗi mỗi đều có báo mách cho nghe …có khi báo trước cả 3 ngày !...nên giữ Thổ nhân cho thật kĩ đừng để hư mất …Vì lúc hư, ta .sẽ nghe khóc than cả tháng trời mới hết …vì hồn họ sẽ dần tan ra trong không gian .Nếu luyện pháp con gái nuôi (chỉ là con gái mà thôi ! không thể là con trai ) thì khi có con thật phải gọi con thật là thứ ba, không được gọi là thứ hai-nếu luyện pháp làm vợ hay ý trung nhân trước khi thực sự lập gia đình …thì phải gọi vợ mình là Em hay tên mà không bao giờ được gọi là Nàng. Những cái tên theo kinh nghiệm để đặt cho những tinh linh chuối là Nàng LINH-NÀNG TRANG-NÀNG THƠM…..tên đặt cho con gái nuôi là Gái Linh, Gái Trang, Gái Thơm ….Vì sao ? Đây là những cái tên mà những hành giả xưa nay từng kêu gọi….sau 12 năm thì mãn 1 đời tinh linh chuối …nhưng nếu tân hành giả bây giờ lại kêu thì họ sẽ mau tụ linh khí lại về như xưa.

                 Luyện tinh linh chuối nhờ được rất nhiều việc mà người nhà mình không làm được,và ngược lại thì tinh linh chuối lại không làm được những gì người làm được! (lạm bàn tả đạo 1 chút …thì nếu như hành giả đi đường thấy thích cô gái nào ngoài phố mà cứ để lòng mãi…thì tối nay sẽ hết hồn! vì cô ấy sẽ đến mà ôm mình!...nhưng thực ra đó chính là tinh linh Nàng chuối mượn hình đó !...còn với con gái nuôi thì nó rất vui và hiếu với mình…cũng không hề ganh tị làm hại con ruột như bên luyện Thập nhị linh nhi tức đồng tử Kumanthong - 1 dạng chơi Thiên linh!) nếu hành giả thực thi phép luyện nầy sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm thú vị về cõi tâm linh!...Và nhất là không còn mơ hồ khi ngày sau nghe ai nói về truyền thuyết luyện LINH CÂY CHUỐI HỘT !

                       Mến tặng kinh nghiệm nầy cho tất cả bạn thích Huyền môn!

                                        HẾT (NĂM 1984 luyện , mản phép năm 1996)

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2013

Ma - da ???


            Mada! Ma da là gì đây ta? Là truyền thuyết về bạch tuộc khổng lồ? Hoặc người cá …mĩ nhân ngư …chăng? Hay là loài cá nược,có thân hình trắng hồng, dài non gần 2mét, con cái có bộ ngực như thiếu nữ…nhưng đầu trọc lóc tròn vo?...Cá nược được nhiều người lớn tuổi kể lại là đã thấy trên dòng sông Bến Hải ….nhưng gần nhất có lẽ là trên sông Tiền vào năm 1970…Cá Nược thường bơi theo phía sau những ghe xuồng nho nhỏ không chạy bằng động cơ …có lúc nó bơi sấp …có lúc lại bơi ngửa …nên mới có chỗ mô tả như trên vậy…Cá nược chỉ bơi lẻ loi giữa dòng, không khi nào ghé vào bờ cạn....đã lâu lắm rồi không còn nghe ai nói về Cá nược nữa…..nhớ lúc còn trẻ có lần nghe kể ,có người đàn ông đánh lưới cá đêm khuya , kéo được cá nược vào lưới …lúc đầu ông kinh hoàng nghỉ là hôm nay xúi quẩy, kéo nhằm thằng Chỏng (chỏng là người chết trôi, đàn ông trôi úp, đàn bà trôi ngửa)… đến sau định thần nhìn kĩ hoá ra là Cá nược…sau khi nhìn thấy Cá nược ông bổng nổi lên ý đồ không hay…cũng có lẽ vì trời lạnh mà thân côi…nên ông kéo cô Cá nược lên xuồng rồi làm 1 cuộc giao hoan trên trời dưới …nước!...Chỉ nghe ông kể mà thôi …nhưng bạn chài không ai tin được câu chuyện huyền bí này...mà đó củng là lần trò chuyện cuối của ông, vì 3 ngày sau ông đột nhiên chết trong khi ngủ mà không ai hiểu rõ nguyên cớ gì? Hồi ấy đâu có pháp y như bây giờ! Gà vịt chỏng cẳng chết ngang thì kêu là mắc toi …mà người chết chỏng cẳng thì gọi là trúng gió …vậy thôi!...Sau đó ,,,dần hồi rồi ai nấy cũng quên nốt cái tên ông ta kèm theo 2 từ “cá nược”!

               Và bây giờ mình trở lại thời điểm mùa hè 1972…Hôm đó tại Tiền giang Thị trấn Cái Bè…trời rất nóng nực…có nhiều người ngủ trong nhà không an giấc …nên lò mò ra bờ sông trước hiên nhà …có thể hóng mát 1 chút…có thể tiểu rồi vào ngủ lại …hay hút điếu thuốc rê cho đêm bớt hiu quạnh…cậu tôi thì 3 trong một như vậy là bình thường trong những đêm hè ấy.
              Ông có 1 cái xuồng nhỏ loại chở 3 người, đêm ấy khoảng 2 giờ khuya hơn, ông lò dò tay cầm thuốc rê, tay xách cái đèn dầu trứng vịt rà đường , đi ra cái xuồng, khi đi gần đến xuồng độ 3 mét ông chợt thấy 1 bóng đen nằm thu lu ngay trong lòng xuồng!....Lúc ấy dưới nhà quê ít ăn trộm lắm ..vì ai cũng nghèo như nhau, chỉ hơn nhau là cái bộ ván nằm trong nhà và cái tủ thờ làm bằng gỗ cẩm lai, lim, hay gỗ tạp thôi!....Cho nên ông in trí là cha nội nào nhậu quắc cần câu rồi về nhà không nổi…đi ngang ghe liền nhảy lên làm đại 1 giấc cho xong. Nhưng cậu tôi động lòng trắc ẩn, sợ e rằng ba nầy trúng gió nhập thổ rồi không chừng nên bước hẳn lại gần xem cho rõ….

                 Khi ông vừa dí gần cây đèn dầu vào mặt người ấy bỗng ông hãi hùng đánh rơi cả cây đèn xuống ghe….cái bóng ấy vùng vọt lên hơn 1 mét rồi rơi đùng xuống sông…Nước bắn lên tung toé vào mặt cậu tôi !...Rồi không nghe bất kì tiếng động nào nữa…mặt sông êm ru như trước đó …Mợ tôi trong nhà nghe cái  “‘đùng”  nên chạy ra, vì trời vốn quá oi bức nên hầu như không ai thực sự ngủ mà chỉ nằm lấy có chờ gà gáy sáng, Mợ cầm cái đèn dầu ống dài , tay kia xắn quần chạy thẳng ra chỗ cậu tôi , chỉ cách độ hơn 10m mà thôi. Cậu tôi không nói 1 lời ,chỉ lật đật nắm tay mợ tôi lôi đi thẳng vào trong nhà đóng liếp lại (hồi ấy nhà lá vách đất , không có cửa chốt then gài, khung trống toang, chỉ khi nào mưa to gió lớn mới kéo tấm liếp lợp bằng lá dừa mà che mưa thôi)… ông đi lật đật đến nổi quên nhặt cái đèn trứng vịt rơi trên xuồng .Cả 2 vợ chồng vào nhà hé ra mà nhìn mãi cái ánh sáng leo lét của ngọn đèn bị bỏ rơi trên chiếc xuồng….tuyệt nhiên không một bóng người xuất hiện!

               Đến khi trời chập sáng ,nhiều người ra đồng sớm bắt đầu đi ngang nhà Cậu tôi,chỉ thấy những bóng người đi vội vã với những cái bập thuốc rê sáng bừng lên . Lát sau xa xa nghe tiếng xuồng máy gắn chân vịt bắt đầu chạy qua , nước động từng hồi đưa con sóng bập bềnh chiếc xuồng của cậu tôi…lúc ấy 2 vợ chồng ông mới dám lần mò ra xem chiếc xuồng…trong lòng xuồng ,cái đèn nghiêng hết dầu đã tắt,nhưng 1 thứ nước nhớt đục sền sệt dính đầy bên trong, nghe mùi tanh như cá vậy!

            Năm 1974 tôi về  nghe mợ kể lại câu chuyện nầy. Mợ tôi nói phải đến buổi cơm trưa của ngày hôm sau …cậu mới thầm thì nói lại mình thấy gì trong đêm đó. Không thấy gì nhiều gì nhiều đâu ! chỉ là 1 kẻ có bộ mặt già nhăn nhúm không râu , trần truồng, lớn cỡ đứa bé 10 tuổi, có đôi mắt lồi ra khỏi hốc mắt với con ngươi thật tròn to như 2 con ốc bươu. Đầu nó trọc hơi gồ lên trên đỉnh…nó đang nằm im chợt thấy đèn chiếu vào mặt nên tung mình văng lên rồi rơi ùm xuống sông….không nghe tiếng bơi , tiếng vỗ nước gì từ khi nó mất tăm dưới bờ sông đen ngòm…..còn chất nhớt trên xuồng nhiều ước chừng mấy lít màu trắng đục,rất tanh,phải dùng dầu chai trét ghe trộn dầu hôi bôi lên mới át bớt mùi tanh ấy.

           Cùng trong năm ấy và mùa hè ấy ,thêm 1 người nữ trong nhà cậu tôi thất kinh hồn vía khi  chị cùng 1 người nữ khác , là bà con , cùng chèo xuồng vào buổi trưa ước độ 3 giờ. Cả 2 chèo xuồng ra sông thả trôi , ngồi học bài cho mát…bất ngờ 1 cánh tay trắng bợt từ dưới sông chộp lên cườm tay 1 người để ven xuồng ! Nó không nắm lấy hay lôi kéo gì nhưng chỉ để lại 1 mảng nhớt lầy trên tay áo!....Dĩ nhiên là cả 2 người cấp tốc chèo về nhà ngay và nhảy lên giường nằm….trùm mền. Hai người cô ấy của tôi dạo đó 11 và 12 tuổi.

             Nhưng theo Người Khăn Trắng(tác giả của những câu chuyện ma và nhà bị ma ám -Xuất bản năm 1964) thì câu chuyện nó thơ mộng hơn….chuyện của ông sưu tầm từ những nhân chứng, không phải là chuyện sáng tác tiểu thuyết. Câu chuyện ngắn gọn như sau…năm 1957 bên 1 bến sông ven miền Trung vào 1 buổi chiều tà. Hôm nào giờ ấy con nước cũng lên đầy nên ông A cũng gánh đôi thùng ra bờ sông lấy nước . Hôm ấy ông lấy làm lạ vì nước đầy …mà sao ông kê nghiêng thùng múc mãi … nó vẫn cạn queo trong đôi thùng…giây lát ông nghe như có tiếng kêu ro ro như bọt nước chảy trong ống , ông quay đầu lại nhìn sau lưng thì thấy 1người đàn ông rách rưới ngồi chồm hổm dưới sông ,y đang cầm cái ống tre dài ngậm vào miệng mà hút nước , đầu ống tre đang chỏ vào cái thùng ông gánh trên vai !... ông chưa kịp cất tiếng hỏi thì cái cổ người ấy bổng vươn dài ra mấy tấc !... ông hãi quá nên quay lưng quảy gánh mà chạy !...chạy mấy mét ông ngoái lại nhìn vẫn thấy cái cổ ấy nó dài ra thêm cả thước rồi ! Lúc nầy thì ông quăng cả đôi gánh và đôi guốc dưới chân mà chạy thục mạng . Khi vào đến nhà thì quần ông ướt sủng …ông không còn phân biệt được là nước sông hay nước tiểu của chính mình !

            Còn những mẩu chuyện về những “nhân-vật” từ dưới sông lên ám nhập vào con người ,chủ yếu là thiếu nữ, lại là 1 đề tài với những tên gọi khác nhau tuỳ vùng. Nhưng những “nhân-vật” nầy không phải là “ma-da”như bà con vùng quê Nam Bộ từng phân biệt .Nếu có dịp mình sẽ thuật lại vào 1 buổi chiều rảnh rỗi nào đó .

             Chúc các bạn 1 ngày vui vẻ nhe.


Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

Ma và Ngạ quỷ



Ngày nay, Ma vn là bí n đi vi nhân loi, có nhng câu chuyn nói v Ma, nhưng cũng không th kết lun được là có Ma.


Qua cái nhìn của Văn hóa và Tôn giáo Việt Nam, thì con người gồm có một phần xác và một phần hồn. Khi phần xác chết  thì phần hồn sẽ lìa khỏi xác và phần này được gọi là linh hồn. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ, mà còn vương vất ở những nơi có liên quan đến họ khi còn sống,  thì  từ ngữ bình dân thường  gọi là : Ma, Hồn ma, Quỷ, Cô hồn...
Ma hay Hồn ma, là một khái niệm trừu tượng, trên thực tế, khi nói đến ma người ta thường diễn tả thấy một dáng người, trắng bạc, hay một cái bóng lờ mờ, hoặc một đống đen thùi lùi, còn chỗ ở của ma là những ngôi mộ, nhưng ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ. Theo quan điểm một số người nói là : chỉ có người có duyên với Ma  thì mới có thể nhìn thấy được Ma hay những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và nói chuyện được với Ma.
Một số khác cho rằng Ma có thể biết được tất cả những gì người sống nghĩ và các việc đã, đang và sắp xảy ra như kết quả xổ số, đồng thời cũng có khả năng tác nhập xác của người sống như hiện tượng lên đồng, tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng động, rung cây, xô lệch bàn ghế... Đại đa số người ta chỉ nói : Ma chỉ nhát người chứ không hại người. Những người thường hay tin có Ma là phụ nữ, trẻ em, người già, sống ở vùng miền quê.
Ngày nay, Ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện nói về Ma, nhưng cũng không thể kết luận được là có Ma. Sự bí ẩn này còn bị hạn chế trong tầm hiểu biết của con người. Các nhà cận tâm lý học có rất nhiều nghiên cứu về hiện tượng ma quỷ nhưng vẫn chưa có khẳng định khoa học nào.

Theo các giả thuyết khoa học Ma có thể là do các sóng hạ âm gây ra, gió biển mạnh thổi nhanh dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ tạo ra các sóng hạ âm được cho là nguyên nhân gây ra hiện tượng nghe tiếng ma ở các nơi này.
Các nhà khoa học còn có giả thuyết: Mỗi con người chúng ta đều phát ra một từ trường có tần số dao động riêng, khi ta chết đi, nguồn sóng từ trường vẫn tồn tại. Khi có một ai đó có tần số phù hợp, sẽ kích thích từ trường này, làm cho người xung quanh nơi đó thấy lại những cảnh sinh hoạt trước đây của người chết.
Trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường dùng các loại bùa chú, thánh giá, máu chó, tỏi, củ hành, cây dâu, cây đồng đình... để trừ ma, nhưng đôi khi các vật này không tác dụng gì với Ma mà họ cũng chẳng giải thích được tại sao Ma lại không sợ. Các thầy ngải dùng linh hồn, thường là chết oan, để trù ếm và luyện các các loại ngải có tác dụng hại người.
Mỗi quốc gia đều có những huyền thoại về Ma khác nhau, do đó Ma cũng trở thành đa dạng.  Thí dụ như ở Việt Nam có ma da, ma le, ma gà, ma lai, ma trơi, ma không đầu, ma lưỡi dài, ma một mắt, ma cổ dài...Ở phương Tây thì có ma sói, ma cây, ma cà rồng.
Theo Phật giáo, Ma  gọi đúng hơn là ngạ quỷ, là một trong lục đạo luân hồi, xếp trên súc sanh và địa ngục. Loài ngạ quỷ có hai nơi ở, một là nước Diêm La của nó, hai là sống trên dương gian cùng với người, vì vậy người ta hay nói đi đêm có khi gặp quỷ. Cuốn Petavatthu (Peta = Quỹ + vatthu = Truyện) là quyển sách thứ bảy trong Khuddaka Nikaya…
… Khuddaka Nikàya là quyn th năm ca b Kinh Tng (Sutta Pitaka). B kinh này gm có : Trường B (Digha Nikaya), Trung B (Majjhima Nikaya), Tương Ưng B (Samyutta Nikaya), Tăng Chi B (Anguttara Nikaya), và Tiu B (Khuddaka Nikaya).
Con người được coi như một tiểu thiên địa, một vũ trụ thu nhỏ. Vũ trụ bao la có vô số hệ mặt trời có sự sống giống như trái đất. Một hệ mặt trời mà có 1 hành tinh có sự sống có thể tạm gọi là Tam Giới.
Trong ABHIDHAMMA chương 10 có nói về Tam Giới và nó có 31 cõi được phân loại như sau:  11 cõi dục giới, 16 cõi sắc giới, 4 cõi vô sắc giới. Mỗi cõi có cấu tạo vật chất hoàn toàn khác nhau. Tiểu Thế Giới gồm 1.000 cái Tam Giới, Trung Thế Giới gồm 1.000 Tiểu Thế Giới,  Đại Thế Giới gồm 1.000 Trung Thế Giới. Còn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới là vô tận.
Tam giới phát triển qua 4 giai đoạn :  Thành, Trụ, Hoại, Không. Một chu kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không của Tam Giới gọi là Trụ Kiếp, 4 Trụ Kiếp được gọi là Đại Kiếp. Các dạng sống trên Tam Giới thường khởi đầu bằng sự Hóa Sanh khi hội đủ Duyên hay điều kiện. Sau đó mới có Thai Sanh, Noãn Sanh. Một năm thế gian tính tương đối là 365 ngày.
Dục giới gồm có 11 cõi : 4 cõi khổ và 7 cõi thiện dục giới như sau :

1. Ðịa Ngục (Niraya): Cõi này chỉ có mọi sự thống khổ chứ không có sự an vui, nơi mà các chúng sinh Tự Trừng Phạt do các Ác Nghiệp đã tạo. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.



2. Ngạ Quỹ (Pettivisaya): Chúng không phải là ma quỹ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa. . . Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.

3. Súc Sanh (Tiricchānayoni): Các sinh vật đi ngang, bò đi, không đi thẳng như người, còn gọi là Bàng sanh, gần như là tất cả sinh vật bình thường trừ con người. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
4. A-Tu-La (Asurakāya): Asura nghĩa là những vị không có hoan lạc hay không chói sáng. Những chúng sanh này rất hung dữ, hay gây gổ. Loại A-Tu-La sanh ở đây không giống với loại A-Tu-La chư thiên chuyên gây chiến với chư thiên và sống ở cõi Tam Thập Tam Thiên. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.

5. Cõi người (Manussa): những người có tâm cao thượng, do đó phải hiểu rằng được làm người là rất khó, tất cả mọi đứa trẻ bình thường được sinh ra đều là những thiên thần, chính cuộc sống và những người xung quanh biến chúng thành quái dị, con người là cái gì đó rất thiêng liêng và cao quý.

6. Tứ Thiên Vương (Cātummahārājika): đây là cõi thấp nhất trong các cõi chư thiên. Tuổi thọ 9.000.000 tuổi người. Dưới nó còn có các chư thần thấp hơn như sơn thần, thổ địa, thánh mẫu . . . (thường 1 ngày của họ bằng 1 tháng, 1 năm hoặc hơn tùy theo tầng cao hay thấp)
7. Tam Thập Tam Thiên (Tāvatimsa): Ðế Thích (Magha) cư ngụ ở đây. Sở dĩ gọi như vậy vì theo tích truyện có 33 vị dưới sự hướng dẩn của Ðế Thích đã làm những việc thiện và được tục sinh tại đây. Tuổi thọ 36.000.000 tuổi người.

8. Dạ Ma Thiên (Yāma): Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Nơi đây mọi đau khổ đều được trừ diệt. Tuổi thọ 144.000.000 tuổi người.
9. Ðâu Suất Ðà Thiên (Tusita): những vị sống sung sướng. Theo tục truyền, vị Bồ Tác tương lai (Di Lặc) đang sống tại đây và chờ cơ hội thuận tiện để tái sinh làm người và thành Phật. Tuổi thọ 576.000.000 tuổi người.
10. Hóa Lạc Thiên (Nimmānarati): những vị sống hoan lạc trong những lâu đài tự tạo ra. Tuổi thọ 2.304.000.000 tuổi người.
11. Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranimmitavasavatti): những vị đem dưới quyền của mình các vật do các vị khác đã hóa hiện. Tuổi thọ 9.216.000.000 tuổi người.
Sắc Giới gồm 16 cõi:
Cõi Sơ Thiền Sắc Giới có:
Phạm Chúng Thiên (Brahmapārisajjā): đây là cảnh giới thấp nhất. Những vị sanh ra ở đây là đồ chúng của Ðại Phạm Thiên (Mahābrahmā). Tuổi thọ 1/3 Trụ Kiếp.
Phạm Phụ Thiên (Brahmapurohitā): những vị sanh ra ở đây sẽ là phụ tá cho Ðại Phạm Thiên. Tuổi thọ 1/2 Trụ Kiếp.
Ðại Phạm Thiên (Mahābrahmā): các vị sanh ở đây có hình thái đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc và sông lâu hơn các vị sinh trong 2 cảnh trời trên. Tuổi thọ 1 Trụ Kiếp.
Cõi Nhị Thiền Sắc Giới có :
Thiểu Quang Thiên (Parittābhā). Tuổi thọ 2 Đại Kiếp.
Vô Lượng Quang Thiên (Appamānābhā). Tuổi thọ 4 Đại Kiếp.
Quang Âm Thiên (Ābhassarā). Tuổi thọ 8 Đại Kiếp.
Cõi Tam Thiền Sắc Giới :
Thiểu Tịnh Thiên (Parittasubhā). Tuổi thọ 16 Đại Kiếp.
Vô Lượng Tịnh Thiên(Appamanāsubhā). Tuổi thọ 32 Đại Kiếp.
Biến Tịnh Thiên (Subhakinhā). Tuổi thọ 64 Đại Kiếp.
Cõi Tứ Thiền Sắc Giới có:
Quảng Quả Thiên (Vehapphalā). Tuổi thọ 500 đại kiếp.
Vô Tưởng Thiên (Asaññasattā). Tuổi thọ 500 đại kiếp.
Vô Phiền Thiên (Avihā). Tuổi thọ 1.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Vô Nhiệt Thiên (Atappā). Tuổi thọ 2.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Thiện Hiện Thiên (Sudassā). Tuổi thọ 4.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Thiện Kiến Thiên (Sudassì). Tuổi thọ 8.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Sắc Cứu Kính Thiên (Akaniṭṭhā). Tuổi thọ 16.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Vô Sắc Giới gồm 4 cõi.
Không Vô Biên Xứ Thiên (Ākāsānañcāyatanabhūmi). Tuổi thọ 20.000 đại kiếp.
Thức Vô Biên Xứ Thiên (Viññānancāyatanabhūmi). Tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
Vô Hữu Xứ Thiên (Ākiñcāññāyatanabhūmi). Tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên. (Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi). Tuổi thọ 84.000 đại kiếp.
Theo lời của Đức Phật Thích Ca thì có thể Thiền Tuệ đạt đến Diệt Thọ Tưởng Định, lúc đó sẽ là Vô Sinh – Vô Diệt, thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Ngạ Quỷ là ai ? Nhà họ ở đâu ?  Họ sống bằng cách nào ?
Trong cõi khổ thứ hai có tuổi thọ không nhất định của Dục giới có miêu tả về Ngạ Quỷ (Pali gọi là Pettivisaya). Chúng không phải là ma quỷ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa.
Từ Pettivisaya trong tiếng Pali được định nghĩa như sau:
Petā có nghĩa là cách ly sự an lạc, xuất nguồn từ câu: Sukhasamussayato Pākaṭṭho entīti.
Petti là Hội chúng của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Petāna samūho.
Pettivisayo là chỗ ở, chỗ sanh của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Pettiyā visayo.
Ngạ quỷ cũng có nhiều loại, Ngạ quỷ nhỏ, Ngạ quỷ lớn, Ngạ quỷ biến hóa thành hình ảnh đẹp hoặc hình ành xấu. Về hình đẹp thì cho thấy dạng, nam, nữ, đạo sĩ, Sa di, Tỳ khưu. Còn  xấu thì cho thấy là trâu, bò, voi, chó với hình dạng kinh khiếp  như có đầu to, mắt lồi và có khi không hiện rõ...
Trong các loài Ngạ quỷ cũng có những loại phải chịu đói khát khổ sở,  ăn những cặn bả được quăng bỏ ở những nơi dơ bẩn hay ăn đàm, mũ, nước miếng và phẩn ...
Phẩm Lokapaññatti có ghi rằng: " Yattha petanagare petamahiddhiko sabbapetāna issariyādhipaccankaroti".
Rừng Vijjhātīavī là kinh thành của loài Ngạ quỷ, và Ngạ quỷ Mahiddhika là vị chúa tể cai trị tất cả các Ngạ quỷ khác.
Đây là 12 loại Ngạ quỷ  được điển hình trong phẩm Lokapaññatti và Gacchatidīpanī:
1- Vantāsapetā hay Vantāsa: Ngạ quỷ ăn nước miếng, đàm, vật nôn mữa. Nguyên nghĩa Pali : Vanta asati bhakkhatīti = Vantāso.
2- KuApāsapetā hay Kuapāsa: Ngạ quỷ ăn tử thi người hoặc thú. Nguyên nghĩa Pali: Kunapa arati dakkhatīti = Kuapāso.
3- Gūthakhādakapetā hay Gūthakhādaka: Ngạ quỷ ăn phẩn. Nguyên nghĩa Pali: Gūtha khādatīti = Gūthakhadako.
4- Aggijālamukhapetā hay Aggijālamukha: Ngạ quỷ thường có lửa trong miệng. Nguyên nghĩa Pali : Aggijālamukhatā etassāti = Aggījālamukho.
5- Sucimukhapetā hay Sūcimukha: Ngạ quỷ có miệng bằng lổ kim. Nguyên nghĩa Pali : Sūcipamāna sukha etassāti = Sūcimukho.
6- Tahaṭṭikapetā hay Tahāhaṭṭita: Ngạ quỷ thường bị ái bức hại cho đói khát. Nguyên nghĩa Pali : Tahāya aṭṭhito pūitoti = Tahāhaṭṭito.
7- Sunijjhāmakapetā hay Sunijjhāmaka : Ngạ quỷ có thân đen như than. Nguyên nghĩa Pali: Suṭṭhu nissesena jhāno= Sunijjhāmo, Sunijjhāmo viyāti= Sunijjhāmako. Cây bị lửa đốt hết cành, lá, thân, chỉ còn lại gốc cây bị cháy gọi là Sunijjhāmaka.
8- Suttagapetā hay Suttaga: Ngạ quỷ có móng tay nhỏ, móng chân dài và bén nhọn như dao. Nguyên nghĩa Pali : Sattasadisa aga etassāti = Suttago.
9- Pabbatagapetā hay Pabbatago: Ngạ quỷ có thân cao lớn bằng quả núi. Nguyên nghĩa Pali: Pabbatappamao ago etassāti = Pabbatago.
10- Ajagaragapetā hay Ajagaraga: Ngạ quỷ có thân giống như con trăn. Nguyên nghĩa Pali: Ajagarasadiso ago etassāti = Ajararago.
11- Vemānikapetā hay Vemānika: Ngạ quỷ bị cảm thọ khổ lúc ban ngày, nhưng ban đêm được thọ hưởng lạc trong Thiên cung. Nguyên nghĩa Pali : Vimāne nibbattoti = Vemāniko.
12- Mahiddhikapetā hay Mahiddhika: Ngạ quỷ có Đại thần lực. Nguyên nghĩa Pali : Mahatiyā iddhiyā samannāgatoti = Mahiddhiko.
Petavatthu và Aṭṭhakathā, īkā cũng có ghi bốn loại Ngạ quỷ thường được kể trong chủ đề của họ như là:
1- Parehidatta upanissāya jīvatīti = paradattupajīviko.  Vì sống phải dựa vào người khác nuôi, nên người ta đặt tên nó là Ngạ quỷ Paradattupajīvika.
2- Khudā ca pīpāsā ca = Khuppipāsā (Đói và khát). KhuppiPāsāhi pilito = KhuppiPāsiko(sự đói khát). Khuppipāsika  là Ngạ quỷ đói và khát.
3- Nijjhāmena tahā etassāti = Nijjhāmatahiko.  Vì có  sự thèm ái dục hay sự đói khát thường xuyên và liên hệ từ lửa cháy trong miệng cho nên Ngạ quỷ này được gọi là Nijjhāmatahika.
4- Ngạ quỷ Kaakañcika này khỏi phải định nghĩa, vì là tên của Atula, như trong Pātheyyavagga aṭṭhakathā có ghi rằng: "Kālakañcikāti tesa asurāna nāma". Gọi là Kālakañcika này là tên của Atula thuộc loài Ngạ quỷ.

Vài loài Ngạ quỷ mà Bồ-tát không sanh vào là:
1- Ngạ quỷ KhuppiPāsika
2- Ngạ quỷ Nijjhāmatahika
3- Ngạ quỷ Kālakañcika
Ngoài các loại Ngạ quỷ đã kể trên, còn có nhiều loại khác, như Ngạ quỷ  Suciloma là loại Ngạ quỷ có lông như kim, Ngạ quỷ Kharaloma là Ngạ quỷ có lông thô, Ngạ quỷ Ghanakha là Ngạ quỷ có móng tay và móng chân dài.
Theo  Lakkhaasamyutta có 21 loại Ngạ quỷ được trình bày như sau:
1. Aṭṭhisakhasikapetā: Ngạ quỷ có xương dính với nhau thành từng khúc, nhưng không có thịt.
2. Ma
sapesikapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng mãnh, nhưng không có xương.
3. Ma
sapiṇḍapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng cục, thành khối.
4. Nicchaviparisapetā: Ngạ quỉ không có da.
5. Asilomapetā: Ngạ quỷ có lông như gươm.
6. Sattilomapetā: Ngạ quỷ có lông như giáo.
7. Usulomapetā: Ngạ quỷ có lông như cây tên.
8. Sūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim.
9. Dutiyasūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim, loại thứ hai.
10. Kumbha
ṇḍapetā: Ngạ quỷ có hòn dái rất to.
11. Gūthakūpanimuggapetā: Ngạ quỷ chìm ngập trong phẩn.
12. Gūthakhādakapetā: Ngạ quỷ ăn phẩn.
13. Nicchavitakipetā: Ngạ quỷ cái không có da.
14. Duggandhapetā: Ngạ quỷ có mùi hôi thối.
15. Ogilinīpetā: Ngạ quỷ có thân như cây đuốc, lửa.
16. Asisapetā: Ngạ quỷ không có đầu.
17. Bhikkhupetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu.
18. Bhikkhunīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu ni.
19. Sikkhāmānapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống học nữ.
20. Sāma
erapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di.
21. Sāma
erīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di ni.
Nhận thấy sự khổ đau cùng tột của loài ngạ quỷ mang hình thù quái vị, bởi do nghiệp chướng, tham lam bòn sẻn đời trước mà chiêu cảm quả báo đời này. Ðức Phật với tâm từ bi vô tận đã thuyết ra nhiều pháp môn phương tiện để cứu độ. Một trong các pháp môn phương tiện để cứu độ loài ngạ quỷ đó là pháp chẩn tế cô hồn.
Trong pháp nghi này, Ðức Phật đã thuyết ra rất nhiều chơn ngôn thần chú, như Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Tịnh nghiệp chướng chơn ngôn, Phá địa ngục chơn ngôn, Khai yết hầu chơn ngôn, Biến thực chơn ngôn, Biến thủy chơn ngôn...để chỉ cho họ thấy được đâu là nẻo chánh đường tà, khiến họ dứt trừ được tâm tham lam bỏn sẻn, hồi tâm hướng thiện một lòng tu hành, được vĩnh viễn thoát hẳn các sự khổ não của cảnh giới ngạ quỷ.

Ðấy chính là tác dụng và mục đích của pháp chẩn tế cô hồn, mà trong các chùa, sau khi kết thúc bất kỳ một pháp sự nào, đều có tổ chức nghi thức cúng cô hồn này…
… Thp loi cô hn được phân loi như sau :
1. Thủ hộ quốc giới: Loại oan hồn vị quốc vong thân;
2. Phụ tài khiếm mạng: Loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, sẩy thai;
3. Khinh bạc Tam Bảo: Loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo;
4. Giang hà thủy nịch: Loại oan hồn chết sông, chết biển;
5. Biên địa tà kiến: Loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm;
6. Ly hương khách địa: Loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi;
7. Phó hỏa đầu nhai: Loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém;
8. Ngục tù trí mạng: Loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù;
9. Nô tì kết sử: Loại oan hồn chết vì bị nô lệ, hành hạ, đày đọa;
10. Manh mung ám á: Loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.

(Lược trích trong Tinh Hoa Pht Hc ca TS Hu Dân)
Nguồn: http://www.daophatngaynay.com/