Xin trả lời-sắc khờ (chử khờ đọc nhẹ thôi , đọc dính lại là
săk)
-phun
lờ ( chử lờ đọc nhẹ thôi , đọc dính lại là phunl)
-ngan lờ(chử lờ đọc nhẹ thôi , đọc dính lại là
nganl)
-đọc sai giọng chút đỉnh không sao hết-khẩu âm mổi dân tộc mổi
miền đều khác nhau –mình làm sao mà đọc y chang được-chỉ có 1 cái tất cả giống
nhau khi niệm kinh thôi=là niệm trong an tịnh-chỉ có mình và kinh lúc ấy ….thân
mến chào bạn.
1-tăng khanh
ha rô-maha vi rô mê thanh-kha rô ma ha ya sô.
2-sa ra
nganh kha rô-lô kha hi tô-đi panh kha rô-chu tin kha rô.
3-kônl đanh
nhô-cha na kha mô khô-manh ga lô-pu ri sà sa đô.
4-su ma
nô-su ma nô-thi rô đê va tô ra ti va tha nô.
5-sô bí tô
su la sam panl nô-a nô ma đa si- cha nut ta mô.
6-pa đu
mô-lo ka pa chô tô-na ra đô-va ra sa ra thi.
7-pa đu mu
ta rô-sa ta sà rô-su mê thô-a ga ti pu ga lô.
8-su cha
tô-sa bà lô kha gô-pí da đa si-na rà sa đô.
9-a tha đa
si-kha ru nghi ngô-thẳm a đa si-ta mô nu đô.
10-sit đa
thô-a sa mô-lô kê tí sô-cha va đa thon va rô.
11-pú sô cha
va ra đô but thô vi pa si cha anh nu pha mô.
12-si khi sá
ba hi tô-sat tha vê sa bhu-su kha đà ya kô.
13-kha khu
săn đô-sat tha va hô-khô na ga ma nô –ra nganl cha hô.
14-kha sa
pô-si ri sam pan nhô-gô ta mô săk ya phunl ga vô.
&&&&&&&&
-giử giới
trì kinh nầy không rơi vào địa ngục-không sợ đói thiếu.
-mua bán
giao tế may mắn-trừ ôn dịch-hàng tà ma.
-bảo vệ sanh
nở nhẹ nhàng.
-được sự hộ
trì của chư phật-chư vị 5 ông-28 vị cổ phật.
-các việc
lành mau viên mản như 7 lớp gương sáng bao quanh hành giả.
-trước khi
giao tế đọc 10 lần sẻ được như ý.
-tụng trong
ngày,tai nạn trôi qua.
-trì chú nầy
nơi đạo tràng nào,kinh nầy sẻ thế chổ vào thần chú nơi ấy.
(ví như biển
lớn thâu hết thảy sông rạch vậy.)
&&&&&&&&&&&&&&&
Kinh tổng trì-chi na phăng cha ra-pa rit tăm măm-rắc
kha tu sá bà da.
(là khi mình
thường trì kinh nầy đả lâu.gặp lúc gấp gẩy,khó lòng tập trung tâm trí trì trọn
vẹn,thì mình nên liên tục niệm câu tổng trì nầy.)
NGUỒN KINH=từ
xưa đọc nghe chép lại đến nay .
-Trì kinh
thiệt tình như khi mình còn nhỏ nói thật luôn luôn với cha mẹ và người mình thương
yêu,tin tưởng….không nhất thiết trì tại chùa-tịnh thất -trước bàn thờ-trong cái
quần áo đạo….mà không giử giới thì chẳng đi đến đâu hết !
-14 câu chưa
thuộc hết …cứ trì đi trì lại vài câu mình đả thuộc củng tốt ….trì đủ càng tốt hơn
…..niệm kinh mà lúc niệm trong lòng không khởi tham-giận-dâm -sợ-lười….thì mới
thật là niệm kinh…..cái nầy ban sơ ai củng bị….kiên quyết niệm mải thì trong lòng
chỉ còn mình và kinh mà thôi ….cái nầy ai củng làm được luôn!
&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&
-đả trì
kinh-muốn kinh linh-phải giử giới!
1-không sát
sanh hại vật vô cớ vì tàn nhẩn hay thèm muốn!
3-không lấy
món gì của ai dù lớn nhỏ mà không xin.
4-không tà dâm!chánh
dâm như vợ chồng không cấm.(xuất gia thì cấm )
5-không dùng
chất gây nghiện-say,dẩn đến mất lý trí và tự chủ.
&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&
-Trên đời nầy
!...tiền là tất cả ! nhưng có khi mà tiền nó … không giải quyết nổi cái chuyện
trong cỏi lòng….thì cái tâm linh nó trổi dậy tìm tòi….phước thì tìm gặp cái chánh
…..thiếu phước thì gặp cái mê tín ! cho nên thà chẳng tin gì sướng hơn !!!
-cái phép nào
mà lợi ta,lợi người….là cái phép tốt,hành hay không tuỳ ý…
-cái phép nào
mà lợi ta ,tổn người….là cái phép ma ,tuyệt đối không hành!
-cứ y như vậy
mà suy xét ! trước mắt thấy -tai nghe ,khoan vội tin phật hay tin ma !
-mà hảy tin
vào lương tâm chính mình trước đả vậy ….
Thuở
xưa, Vua Senaka trị vì Benares, có cứu mạng một Xà vương khỏi tay bọn thanh
niên đang vây đập rắn. Để tạ ơn cứu tử, Xà vương dâng lên vua nhiều châu báu và
một cung nữ Nāga. Xà vương còn dâng vua câu thần chú để ông gọi cung nữ khi
không thấy nàng bên cạnh.
Một
hôm Vua Senaka cùng cung nữ Nāga du ngoạn trong ngự uyển. Vốn tham đắm dục lạc
vô độ, cung nữ thấy con rằn nước dưới hồ sen, bèn hoá thành rắn bò xuống làm
tình cùng chú rắn nước này. Vua quất nàng một roi tre trị tội tà hạnh. Nàng tức
giận bỏ về thế giới Nāga và phao vu nhà vua ngược đãi mình. Xà vương ra lệnh
cho bốn thanh niên Nāga vào vương thất giết vua bằng cách dùng hơi độc thoát ra
từ mũi. Bấy giờ, vua đang kể cho hoàng hậu sự việc xảy ra ngoài ngự uyển.
Nghe
được câu chuyện, bốn thanh niên Nāga trở về trình lại Xà vương. Để chuộc lỗi,
Xà vương hiến Vua Senaka thần chú giúp ông nghe được mọi thứ tiếng trên thế
gian, chỉ với một điều kiện duy nhất là nếu ông truyền thần chú này cho ai, ông
sẽ phải nhảy vào lửa chết.
Nhờ
có thần chú, Vua Senaka nghe nhiều chuyện buồn cười của loài ong, kiến, vân
vân. Vua cười khiến hoàng hậu hiếu kỳ theo hỏi. Sau cùng, nhà vua kể cho bà
nghe và bà đòi được truyền cho thần chú. Bị mãnh lực nữ nhân thôi thúc,
vua đành chấp nhận và ngự lên vương xa, đi vào ngự viên để nhảy vào lửa sau khi
trao truyền thần chú cho hoàng hậu.
Ngay
lúc ấy, ngôi của Sakka nóng lên, Ngài nhìn xuống cõi đất thấy việc này, liền
cùng phu nhân hoá làm hai con dê đón đầu vương xa của Vua Senaka. Hai con dê
làm tình trước mặt các con lừa Sindh đang kéo vương xa. Lừa mắng dê ngu xuẩn và
vô liêm sỉ. Dê bảo lừa còn ngu xuẩn hơn vì đang kéo xe cho một vị vua ngu ngốc.
Vua
nghe được câu chuyện giữa dê và lừa, liền đọc kệ hỏi kế. Dê đề nghị vua bảo với
hoàng hậu rằng Ngài sẽ truyền chú cho với điều kiện bà phải chịu trăm roi lên
lưng không được kêu la. Vì quá ham mê thần chú, hoàng hậu ưng chịu, nhưng vừa
bị hai roi bà kêu la và không còn muốn được truyền thần chú nữa.
Chuyện
được kể về một tỳ-kheo bị vợ cũ cám dỗ. Senaka là vị tỳkheo, Lừa Singh là
Sāriputta, Sakka là Bồ Tát.
Quan Điểm Của Phật
Giáo Nguyên Thủy Về Mật Tông.
Từ trước đến
nay, giới Phật giáo trong nước cũng như trên khắp thế giới đã có nhiều tranh luận
xung quanh việc liệu Mật tông có phải do chính Phật Thích Ca thuyết ra hay
không. Hai luồng dư luận phủ nhận và khẳng định đều có những lý lẽ riêng của
mình.
Những người không chấp nhận kinh điển của tông
phái này là đạo Phật, cũng như bác bỏ cách tu hành của tông phái này là không
thể hiện tính cốt tuỷ của đạo Phật, thường có các quan điểm chung như sau :
1/. Dựa vào các cuộc nghiên cứu lớn về lịch sử đạo
Phật, đều không có chứng cứ lịch sử nào cho thấy Mật tông là do chính Phật thuyết.
Cả ba lần kết tập kinh điển đều không có các kinh Mật.
2/. Đạo Phật nguyên thuỷ phủ nhận linh hồn &
thượng đế (Vô ngã), ngay sau khi giác ngộ Phật Thích Ca đã hướng tâm đi tìm
linh hồn & thượng đế nhưng không thấy. Tuy nhiên Mật tông lại có cả linh hồn
& thượng đế (Hữu ngã). Trong quá trình phát triển của các tông phái Phật
giáo, sự xuất hiện các lý thuyết về linh hồn & thượng đế thường có các dạng
như :
+ Linh hồn hữu hình (thân trung ấm) : sau khi chết,
con người sẽ đi vào trạng thái thân trung ấm, trải qua các giai đoạn khác nhau
trước khi tái sinh vào một đời sống mới. + Linh hồn vô hình : sau khi chết, thức
ấm sẽ đi tìm bụng mẹ để tái sinh + Thượng đế hữu hình : một đấng toàn năng làm
chủ một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh nào đó. Nếu người ta tin tưởng vào vị
này và thường tụng niệm cầu khấn danh hiệu thì sau khi chết sẽ được vãng sinh
vào cõi nước đó, hưởng phúc vĩnh viễn. + Thượng đế vô hình : hay còn có các
cách gọi khác là pháp thân, bản thể chân như, thể tính, đại ngã, duy ngã độc
tôn, tâm bản nhiên ... là trạng thái nhất thể tuyệt đối phủ trùm vạn hữu, thực
tại phổ quát không phân ly nhưng tất cả lại vọng sinh ra từ đó. Các mô tả về trạng
thái này giống hệt Đại Ngã - Chân Ngã của Yoga Ấn Độ.
Nhiều người theo Phật giáo nguyên thuỷ phủ nhận
tính Phật giáo của Mật tông thường cho rằng sở dĩ người tu Mật nhìn thấy thân
trung ấm và nhận tha lực từ các cõi giới siêu hình của Thần Phật là vì sự tu
luyện của họ vẫn còn trong vòng Tưởng tri chứ không phải Liễu tri. Vì họ tu Tưởng
nên có quan kiến giống hệt các tôn giáo khác, về linh hồn sau khi chết, về các
cõi giới siêu hình, về sự cứu rỗi, ban rải tha lực của thánh thần. Còn về đại
ngã - pháp thân - bản thể chân như - tâm bản nhiên - giác tính bất nhị của Mật
tông, thì nhiều nhà tu hành nguyên thuỷ cho rằng đó chẳng qua là tưởng Thức của
định vô sắc Thức Vô Biên Xứ mà thôi. Khi chứng nhập định này thì sẽ thấy tâm thức
phủ trùm vô hạn, phi không gian thời gian. Và tất cả các cõi giới siêu hình
cũng như nhất thể tuyệt đối pháp thân này đều là do tưởng thức lưu xuất ra,
không thật có và không phải là Niết Bàn của đạo Phật nguyên thuỷ.
Các nhà nguyên thuỷ này có cách lý giải là trước
khi tìm ra con đường để đi đến giác ngộ giải thoát, đức Phật đã tu chứng các định
vô sắc, trong đó có cả Thức Vô Biên Xứ (pháp thân - đại ngã - bản thể chân như
- thể tính, ...) nhưng không thấy giải thoát, nên đã bỏ. Quá trình chứng nhập
các định vô sắc như sau :
Giữ tâm không suốt các thời -> chứng nhập Không
Vô Biên Xứ định Xa lìa tưởng Không -> chứng nhập Thức Vô Biên Xứ
định Xa lìa tưởng Thức -> chứng nhập Vô Sở Hữu Xứ định Xa lìa tưởng không của Vô sở hữu xứ -> chứng nhập
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ định Các nhà nguyên thuỷ cho rằng, các phép tu của Mật
tông để chứng nhập pháp thân - bản thể tuyệt đối, thực chất chính là từ Không
Vô Biên Xứ đi vào Thức Vô Biên Xứ. Trong pháp vô thượng du già quan kiến (tối
thượng mật tông), người thầy trước tiên giới thiệu trò vào tâm bản nhiên, rồi
khi trò đã biết tâm bản nhiên rồi thì cứ hướng tới trạng thái đó mà tu hành, giữ
tâm vô phân biệt đến khi nào an trụ hoàn toàn trong tâm bản nhiên thì đắc đạo.
Đây gọi là lấy mục đích làm phương tiện, hoặc "kết quả thừa". Để có
thể rơi vào tâm bản nhiên, thì trước hết người ta phải phát triển tâm không bằng
một nghi vấn, hoặc một đối tượng được bám nắm chặt chẽ trong tâm, đến khi có một
tác động đột ngột vào thân hoặc tâm, thì tưởng Không sẽ vỡ tan và Thức Vô Biên
sẽ xuất hiện (giác tánh bất nhị phủ trùm vạn hữu). Điều này tương tự pháp thiền
quán của mật tông, khi đã chứng nhập tâm không, hành giả sẽ khởi quán đẩy lui
tưởng Không và sẽ giác ngộ nhất thể tuyệt đối. Vì vậy quy trình này được các
nhà nguyên thuỷ quy về Thức Vô Biên Xứ Tưởng Định, một trạng thái tâm của tưởng
định vẫn còn vô minh lậu ở trong định và dục lậu khi ra khỏi định.
3/. Một điểm quan trọng khác mà một số phái nguyên
thuỷ đưa ra để phủ nhận tính Phật giáo của Mật tông là con đường Phật giáo
nguyên thuỷ là Tam Vô Lậu Học (giới vô lậu, định vô lậu, tuệ vô lậu), là pháp
Vô Lậu dẫn đến đích Lậu Tận Trí (không còn lậu), nhưng Mật tông là pháp Hữu Lậu
vì mặc dù cũng tu giới, định, tuệ, nhưng trong pháp vô thượng du già, dục lậu vẫn
được chấp nhận tồn tại và quan điểm cho rằng đó là pháp tu Tam Hữu Lậu Học, chứ
không phải Tam Vô Lậu Học. Pháp tu Vô Lậu của đạo Phật nguyên thuỷ khác xa pháp
tu Hữu Lậu của Mật tông.
Khởi đầu pháp tu đạo Phật nguyên thuỷ là Ly dục
(lìa dục lậu), trên cơ sở cuộc sống 3 y 1 bát, độc cư Ly dục (giới vô lậu), thì
mới đi vào các định vô lậu (lìa hữu lậu). Trên cơ sở định vô lậu rồi mới dẫn
tâm vào trí tuệ vô lậu giải thoát, diệt trừ vô minh lậu, đạt giác ngộ viên mãn,
chấm dứt luân hồi sinh tử. Nhiều đoạn kinh nguyên thuỷ nói về quá trình tu chứng
này của đức Phật, ví dụ như kinh Saccaka, kinh Trung Bộ (phẩm sợ hãi khiếp đảm),
... đều là một quá trình lần lượt : sống độc cư giữ giới vô lậu, nhập các định
vô lậu, dẫn tâm vào trí tuệ giải thoát vô lậu.
Khởi đầu pháp tu mật tông là nhận quán đỉnh, nhận
tha lực của thế giới siêu hình. Và cho đến khi chứng đắc vô thượng du già thì
người ta vẫn còn dục lậu, vẫn có thể quan hệ tình dục. Đã còn dục lậu thì sẽ
còn hữu lậu, sẽ còn vô minh lậu, và như vậy, với ý nghĩa giải thoát của đạo Phật
nguyên thuỷ thì mật tông không thực hiện được. Và cũng bởi vì pháp tu không hướng
tới việc diệt trừ lậu hoặc nên trí tuệ tu hành mà người tu mật có được là trí
tuệ Tưởng tri (vẫn còn dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) chứ không phải trí tuệ Liễu
tri (đã diệt trừ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) của người tu theo đạo Phật
nguyên thuỷ.
Chính vì chứng đắc tuệ Tưởng tri mà hành giả mật
tông, cho dù đã an trụ trong giác tánh bất nhị của vô thượng du già, nhưng vẫn
thấy có thân trung ấm sau khi chết (giống các tôn giáo khác), có những thế giới
siêu hình với các quốc độ cổ Phật trang nghiêm thanh tịnh cực lạc (giống thiên
đàng của các tôn giáo khác), và phương pháp tu hành thì theo các nhà nguyên thuỷ
là rất nặng tính mê tín vì phải cầu khấn cúng vái thế giới siêu hình. Trong khi
Phật đã từng giảng là "sau khi chết, nếu còn một tí thức nào tồn tại dù chỉ
như kẽ móng tay thì giáo pháp ta không tồn tại", và "33 cõi trời chỉ
là các cõi tưởng tri". Cũng vì người tu pháp Vô Lậu của pháp Phật nguyên
thuỷ, do đã diệt tận gốc Tưởng Tri nên mới nhìn ra được bản chất huyễn ảo của
thế giới siêu hình linh hồn thượng đế thần thánh, ... và không bị phụ thuộc vào
nó như các tôn giáo mê tín khác. Tuy nhiên Mật tông đã đi vào vết xe đổ này của
các tôn giáo kia khi bị phụ thuộc nặng nề vào thế giới siêu hình trong suốt quá
trình tu luyện. Nhiều vị thầy nam tông còn khẳng định các linh thể nhập vào các
tranh tượng của mật giáo thực chất toàn Atula bậc thấp biến hình giả Phật, để
hưởng các vật thực cúng dường, vì nếu là chư thiên bậc cao thì không ai thèm nhận
những thứ đó, chứ đừng nói là Phật.
4/. Một đặc điểm nữa khiến nhiều thầy nguyên thuỷ
cho rằng Mật tông thực chất không khác Bà La Môn giáo chính là ở đặc điểm thượng
tầng kiến trúc nắm quyền xã hội. Các Lạt ma, các pháp vương mật tông thay nhau
nắm quyền điều hành xã hội, việc này, theo giới tu nguyên thuỷ thì không khác
giai cấp Bà La Môn ở xã hội Ấn Độ.
Do vậy, chủ yếu dựa vào các quan điểm trên mà đa
phần giới tu hành đạo Phật nguyên thuỷ không chấp nhận Mật tông là đạo Phật.
Tuy nhiên giới tu Mật cũng có rất nhiều ý kiến trái ngược, và thậm chí còn lập
ra những tổ chức để bảo vệ uy tín của mật tông trên thế giới. Không những vậy,
phần nhiều trong số họ tin tưởng rằng mật tông là pháp cao nhất mà Phật bí mật
truyền lại cho rất ít người, và đó là con đường nhanh nhất, ngắn nhất để đắc đạo
(tu tắt). (sưu tầm)