Kỳ lân trong văn hóa
châu Âu,
là một sinh vật thần thoại, với hình dáng
phổ biến được biết đến như là
con ngựa trắng có một sừng trên trán hoặc có
thể có 2 cánh. Tuy vậy, kỳ lân truyền thống còn
có thêm chòm râu dê, đuôi sư tử, và bộ móng xẻ
như trâu bò. Điều này khiến nó khác biệt với
một con ngựa thường.
[1]
Bức
Trinh nữ dịu dàng và trầm
ngâm có sức mạnh thuần dưỡng kỳ lân
(1602), tranh
fresco,
Domenico
Zampieri, trưng bày tại
Palazzo
Farnes,
Roma
Hình
tượng con vật một sừng đã
được tìm thấy trên một số con dấu
từ văn minh lưu
vực sông Ấn.[2]
Những con dấu với thiết kế như vậy
được cho là mang dấu hiệu của vai vế
cao cấp trong xã hội thời đó.[3]
Một
động vật được gọi là Re'em
(tiếng Hebrew: רְאֵם) được
đề cấp tới tại một số phần trong
Kinh thánh Hebrew, thường như là
một ẩn dụ đại diện cho sức mạnh.
Đây là động vật thường được mô
tả trong nghệ thuật nền văn minh Lưỡng
Hà cổ xưa, chỉ với một sừng nhìn
thấy được.[4]
Những
bản dịch Kinh Thánh (1611) có thẩm quyền của
King James, đã lấy từ Unicorn, hay kinh Hy Lạp
lấy từ monokeros và kinh La Mã lấy từ unicornus,
để dịch từ Re'em, cung cấp một loài
vật một sừng không thể thuần hóa mà dân gian có
thể nhận ra được.
Kỳ
lân không được tìm thấy trong thần thoại Hy Lạp,
mà đúng hơn là trong các lĩnh vực của lịch
sử tự nhiên. Các học giả Hy
Lạp về lĩnh vực lịch sử tự nhiên
đã cho rằng thực tế kỳ lân sống tại Ấn
Độ, một vương quốc xa xôi và tuyệt
vời dành cho chúng. Mô tả sớm nhất là từ Ctesias,
người đã miêu tả chúng như là những con
lừa hoang dã, rất nhanh chân, có một sừng dài
chừng một cubit rưỡi (khoảng 70 cm) và lông
màu trắng, đỏ hoặc đen.[5]
Aristotle
đã theo Ctesias
sau khi ông đề cập đến một trong hai loài
động vật một sừng, các oryx (một loại
linh dương) và cái gọi là "lừa Ấn
Độ".[6][7]
Strabo cho
biết, ở vùng Caucasus (tại Trung
Đông) có loài ngựa một sừng với cái
đầu giống loài nai.[8]
Pliny thì
đề cập đến các con oryx và bò Ấn
Độ (có thể là một con tê giác) là một trong
những con thú một sừng, cũng như "con
vật rất hung dữ gọi là MONOCEROS có chiếc
đầu của nai, bàn chân của voi, và đuôi của
heo rừng, trong khi phần còn lại của cơ thể
lại tương tự như của ngựa, và có
một sừng đen đâm ra từ giữa trán dài
tầm hai cubits".[9]
Trong
khi đó, kỳ lân (tiếng Trung: 麒麟) trong
văn hóa Trung Hoa lại là một
sinh vật gần giống con Chimera (thần thoại),
với mình nai, đầu sư tử, vảy xanh lục
và chiếc sừng cong dài hướng về phía
trước. Cụ thể xem bài viết về kỳ
lân.
Phiên
bản trong văn hóa Nhật, Kirin, giống với kỳ
lân phương Tây hơn, ngay cả khi nó được
dựa trên kỳ lân Trung Hoa.
Kỳ lân thời Trung cổ
Những kiến thức thời Trung cổ về loài
sinh vật này bắt nguồn từ Kinh Thánh và những
nguồn cổ xưa về những sinh vật giống
lừa hoang dã, dê, hay ngựa.
Những câu
truyện ngụ ngôn về thú vật
thời Trung cổ, đã phổ biến một hình
tượng tinh tế, trong đó con kỳ lân,
được Đức mẹ Đồng Trinh
Maria nuôi giữ.
Ngay khi con kỳ lân nhìn thấy bà, nó ngả đầu vào
lòng bà và thiếp ngủ. Điều này trở thành một
biểu tưởng cơ bản làm cơ sở cho những
ý niệm về loài kỳ lân, chứng minh sự xuất
hiện của nó trong mọi hình thức nghệ thuật
tôn giáo.
Hai lý giải chính cho biểu tượng kỳ lân trong
Ngoại
giáo và
Công giáo khác nhau. Diễn giải của
Ngoại giáo tập trung vào tri thức Trung cổ về
những người tình dối lừa, trong khi một
số bản viết Công giáo giải thích cái chết
của kỳ lân như
những
khổ hình của Chúa Kitô.
Kỳ lân từ lâu đã được xác định
là một biểu tượng của
Chúa Kitô
trong Công Giáo, cho phép các biểu tượng ngoại giáo
truyền thống của kỳ lân được chấp
nhận trong học thuyết tôn giáo. Các huyền thoại
nguyên bản chỉ đến một con thú với một
sừng mà chỉ có thể được thuần
dưỡng bởi một thiếu nữ đồng
trinh; sau đó, một số học giả Công Giáo cho
điều này thành một biểu tượng cho mối
quan hệ của Chúa Kitô với Đức mẹ
Đồng trinh Maria. Điều thú vị là, thuật
ngữ tập thể cho một đàn kỳ lân đã
được đề xuất như là "một
phước lành của kỳ lân" (tiếng anh:
a
blessing of unicorns).
Cùng với sự gia tăng của chủ nghĩa nhân
văn, kỳ lân còn mang biểu tượng của tình yêu
trong sáng và hôn nhân chung thủy.
Kỳ lân, được cho là chỉ được
thuần dưỡng bởi những trinh nữ.
Điều này được phổ biến trong các câu
chuyện dân gian thời Trung cổ. Những con kỳ lân
được cho là có thể phân biệt được
một người phụ nữ còn trinh hay không. Trong một
số câu chuyện, kỳ lân chỉ được
cưỡi bởi trinh nữ.
Trong khi đó,
Marco Polo đã miêu tả chúng như là:
...nhỏ hơn con voi một chút,
chúng có bộ lông như trâu và bàn chân thì giống của voi.
Chúng có một cái sừng đen ở giữa trán...có cái
đầu giống loài lợn lòi hoang dã. Chúng dành phần
thời gian đầm mình vào bãi bùn. Trông chúng rất
bẩn thỉu. Chúng không giống tất cả những gì
mà chúng ta đã miêu tả khi liên hệ với việc chúng
được nuôi dưỡng bởi những trinh
nữ, thực sự trái ngược với ý niệm
của chúng ta.
Rõ ràng là Marco Polo đang nói đến một con tê giác.
Tại Đức, từ thế kỳ 16, từ
Einhorn
(tiếng Anh: one-horn, tiếng Việt: một sừng)
đã miêu tả một vài loài tê giác. Người Na Uy
cổ thì tin rằng
kỳ lân biển đã xác minh
sự tồn tại của kỳ lân. Sừng của
kỳ lân biển được cho là xuất phát từ
một chiếc răng của hàm trên và phát triển ra bên
ngoài.
Theo Ngài
Thomas
Browne, sừng kỳ lân có thể trung hòa chất
độc, nên được dùng làm ly trong các nghi lễ.
Thậm chí, ngai vàng hoàng gia
Đan
Mạch cũng được cho là làm bằng sừng
kỳ lân.
Săn bắt kỳ lân.
Một phương thức truyền thống để
săn kỳ lân là bẫy chúng bằng một trinh nữ.
Leonardo da Vinci viết trong sổ ghi
chú của ông:
Kỳ lân, ngoài thái độ không
đúng mức và không biết cách kiểm soát bản thân,
với tình cảm hướng tới những trinh nữ
đã khiến nó quên đi tính dữ tợn và hoang dại;
để đi tới và nằm ngủ trong lòng những
thiếu nữ. Sau đó, người thợ săn
chỉ việc tới bắt chúng.[10]
Bức
Thiếu nữ hoang dã bên kỳ lân
(1500-1510), Bảo tàng lịch sử
Basel
Thời
Gothic,
hàng loạt bộ bảy chiếc thảm thêu về
Việc
săn bắt kỳ lân đã trở nên nối
tiếng, và là một mũi nhọn đắt giá trong ngành
sản xuất thảm châu Âu, kếp hợp cả hai
chủ đề thế tục và tôn giáo.
Hiện nay, những tấm thảm thêu như vậy
được treo tại
Tu
viện của
Bảo tàng Nghệ thuật
Metropolitan, thành phố
New York.
Trong loạt thảm này, là hình ảnh những quí tộc
giàu sang, được hộ tống bởi các thợ
săn và chó săn, đuổi theo một con kỳ lân trên
một phông nền hoa hay những tòa nhà và khu vườn.
Họ bắt con thú vào lồng với sự giúp đỡ
của một thiếu nữ, và đem nó trở về lâu
đài. Ở bản cuối cùng và cũng là bản nổi
tiếng nhất,
"Con kỳ lân trong vòng câu thúc",
nó vẫn sống vui vẻ, bên cạnh một cây lựu,
bao quanh là hàng rào, trên một cành đồng hoa. Các học
giả phỏng đoán rằng những vết đỏ
trên sườn của nó không phải là máu mà đúng hơn
là nước từ trái trái lựu đang rỏ xuống,
đây là một biểu tượng của khả năng
sinh sản. Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của con
kỳ lân phục sinh đầy bí ẩn trong tấm
thảm cuối cùng là vẫn chưa rõ ràng. Phiên bản này
được dệt vào khoảng những năm 1500
tại Vùng đất trũng, có thể là
Brussels
hoặc
Liége.
Một bộ sáu chiếc thảm nổi tiếng khác là
Thiếu
nữ với kỳ lân (tiếng Pháp: Dame à la licorne)
đang được trưng bày trong
Bảo tàng quốc
gia Trung Cổ,
Paris, cũng được dệt tại
miền Nam
Hà
Lan trước năm 1500.
Bản sao của những tấm thảm kỳ lân
hiện đang được được dệt
lại cho mục đích trưng bày lâu dài trong lâu đài
Stirling,
Scotland,
để thay thế cho phiên bản vào thế kỳ 16.
Bằng chứng khẳng định
Năm 1663, trong số nhiều mẩu xương
thời tiền sử được tìm thấy ở
Einhornhöhle
tại vùng núi
Harz Đức,
một số đã được lựa chọn và
lắp ráp lại thành một con kỳ lân bởi Ngài
Otto
von Guericke vùng
Magdeburg. Trên thực tế, con vật
được gọi là kỳ lân của Guericke chỉ có
hai chân, và được ghép lại từ xương hóa
thạch của một con
tê giác lông mịn và
voi ma
mút, với cái sừng của một con
kỳ lân biển. Bộ
xương này được kiểm tra bởi
Gottfried
Leibniz, người trước đó đã nghi ngờ
sự tồn tại của kỳ lân, nhưng
được thuyết phục bởi nó.
[11]
Nam
tước Georges
Cuvier chủ trương, vì kỳ lân có bộ móng
chẻ, nên nó phải có một hộp sọ chẻ,
để chiếc sừng duy nhất có thể phát
triển được. Như để bác bỏ
điều này, Tiến sĩ
W.
Franklin Dove, giáo sư Đại học Maine, đã
hợp nhất các chồi sừng của một con bê
với nhau, tạo ra hình dáng bên ngoài của một con bò
một sừng.
[12]
Kể từ khi tê giác là động vật trên cạn còn
sống sót duy nhất có một sừng, nó đôi khi
được coi là nguồn gốc của truyền
thuyết kỳ lân, bắt nguồn từ cuộc
đọ sức giữa những động vật châu
Âu
kỷ băng hà và tê giác lông
mịn, hoặc là truyền thuyết có thể đã
được dựa trên tê giác của
châu Phi
Con dấu kỳ lân trong nền Văn minh
lưu vực sông Ấn[sửa]
Các đối tượng đầu tiên khai quật
từ
Harappa
và
Mohenjo-daro
là những con dấu nhỏ bằng đá khắc
những hình con thù khá tao nhã, bao gồm một hình giống
với con kỳ lân ở phía trên, bên trái, và đánh dấu
bằng chữ Indus, những ký tự hiện vẫn gây
trở ngại đối với các học giả.
Những con dấu này được đề 2500 TCN.
Nguồn: Đại học North Park, Chicago, Illinois. (Hình:
Con dấu Harappa.)
Con dấu này là một cận cảnh của loài
động vật giống kỳ lân, được tìm
thấy tại Mohenjo-daro, dài 29 mm (1,14 inch) mỗi
cạnh và được làm bằng khoáng chất
Steatite
nóng. Steatite là một hòn đá được chạm
khắc mềm mại một cách dễ dàng mà trở nên
cứng sau khi nung nóng. Trên đầu là bốn chữ
tượng hình Indus chưa được giải mã, là
một trong những hệ thống văn bản
đầu tiên trong lịch sử. (Hình:
Kỳ lân
Harappa.)
Bộ xương kỳ lân của Ngài
Otto
von Guericke, trưng bày gần vườn thú
Osnabrück
Tê giác cổ
Một gợi ý là kỳ lân dựa trên loài động vật đã tuyệt chủng,
elasmotherium, một loài tê giác Á-Âu lớn mang nguồn gốc ở các thảo nguyên, nằm phía nam của phạm vi tê giác lông mịn ở Kỷ băng hà Châu Âu. Elasmotherium nhìn giống như ngựa một chút, nhưng nó có một sừng lớn duy nhất ở trán của nó.
Tuy nhiên, theo
Sách gia đình Bắc Âu và nhà khoa học
Willy Ley, loài vật đó có thể đã sống sót đủ lâu để được nhớ trong truyền thuyết của những người
Evenk của
Nga như là một con bò đen khổng lồ với một sừng trên trán và duy nhất.
Trong sự ủng hộ này, một điều đã được ghi nhận rằng, vào thế kỷ 13,nhà thám hiểm
Marco Polo tuyên bố đã thấy một con kỳ lân tại
Java, nhưng mô tả của ông rõ ràng làm cho người đọc hiện đại nhận ra ông thực sự nhìn thấy một con
tê giác Java.
Kỳ lân biển
Năm 1638,
Ole Worm, nhà sinh vật học Đan Mạch
phát biểu, sừng của kỳ lân thường thấy
trong
Phòng
nội các của những ham biết thời Trung
cổ và châu Âu
Phục
Hưng, là những ví dụ rất thường xuyên
về chiếc ngà đơn, dài và xoắn ốc của
kỳ lân biển
Monodon monoceros thuộc
bộ
Cá voi Bắc Băng Dương.
[13]
Chúng được mang về phía Nam như là một món
hàng thương mại rất có giá trị, và
được bán như sừng của kỳ lân huyền
thoại. Là một chiếc ngà, chúng qua được
rất nhiều các xét nghiệm khác nhau nhằm làm giảm
giá trị của sừng kỳ lân giả. Vì những
chiếc sừng được xem là mang quyền hạn
của phép thuật, người
Viking và những thương gia
miền Bắc có thể bán chúng đắt hơn cả
vàng.
Nữ hoàng
Elizabeth I của Anh cũng
giữ một chiếc sừng kỳ lân trong
Phòng
nội các của những ham biết của bà,
chiếc sừng được
Martin
Frobisher, nhà thám hiểm Bắc Băng Dương, mang
về trong chuyến trở về từ
Labrador vào
năm 1577.
[14]
Các mô tả thông thường của chiếc sừng
kỳ lân xoắn ốc trong nghệ thuật, bắt
nguồn từ đó.
Sự thật về nguồn gốc chiếc ngà phát
triển dần dần trong
kỷ nguyên khám phá, khi
những nhà thám hiểm và nhà tự nhiên học bắt
đầu chuyến thăm thú khu vực và lĩnh vực
của mình. Năm 1555, Olaus Magnus xuất bản một
bản vẽ của sinh vật giống cá có sừng trên
trán.