Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngọc lục bảo là một loại khoáng
vật berin (Be3Al2(SiO3)6)
của berili có
màu xanh với các sắc độ của màu
lục và màu lục hơi ngả sang màu lam (bluish green). Màu xanh của ngọc lục bảo
xuất phát từ hàm lượng nhỏ crôm và đôi khi cả vanađi[1]
trong khoáng vật. Berin có độ
cứng 7,5 - 8 trên 10 của thang độ cứng Mohs[1].
Ngọc lục bảo có thể được sản xuất nhân tạo.
Ngọc lục bảo đã được dùng làm như một đơn vị tiền tệ để trao đổi ở Babylon từ 2000
năm trước Công nguyên. Ở Ai Cập cổ
đại, người ta đã khai thác các quặng mỏ ngọc lục bảo ở gần Biển
Đỏ từ hơn 2000 năm trước Công nguyên để làm đồ trang sức. Các mỏ ở Djebel
Sabara, được tìm thấy lại vào năm 1818, được đặt tên nhầm lẫn là mỏ Cleopatra. Các mỏ này hiện đã
cạn kiệt, chỉ cung cấp được các loại đá quý có chất lượng không cao.Vào thời Đế chế La Mã Hoàng đế Nero đã dùng kính một tròng làm từ ngọc lục bảo khi xem các cuộc đấu trong võ đài. Thời kỳ này ở châu Âu người ta chỉ biết đến mỏ ngọc lục bảo duy nhất là ở Habachtal (Áo).
Trong thế kỷ 16, người Tây Ban Nha khám phá các mỏ mới ở Nam Mỹ, chủ yếu là ở Colombia. Mỏ ở Chivor được khai thác từ năm 1545 và mỏ ở Muzo vào năm 1560.
Một trong những hòn ngọc lục bảo lớn nhất thế giới là hòn ngọc Mogul Emerald được tìm thấy vào năm 1695 ở Ấn Độ. Hòn ngọc này nặng 217,80 cara và cao vào khoảng 10 cm. Một mặt của ngọc có khắc các bài kinh cầu nguyện, mặt kia khắc các hình hoa trang trí. Viên ngọc đã trở thành truyền thuyết này được một người giấu tên mua với giá 2,2 triệu USD vào ngày 28 tháng 9 năm 2001 tại Luân Đôn trong một cuộc bán đấu giá của Christie
- Ngọc
lục bảo có thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể giống beril, tỷ trọng
2,67 - 2,78, với nguyên tố tạo màu là Cr, đôi khi là V.
- Màu
sắc: Emơrôt thường có màu lục tới lục đậm. Màu lục của emơrôt không gì
sánh được vì thế được gọi riêng là "lục emơrôt". Nguyên nhân tạo
màu lục là do Cr2O3, đôi khi là vanadi (Va). Màu sắc rất ổn định dưới tác
dụng của ánh sáng và nhiệt, chỉ biến đổi nhiệt độ 700 - 8000C. Màu được ưa
chuộng nhất là màu lục thắm, còn màu lục nhạt, vàng lục, lục tối ít chuộng
hơn. Màu sắc trong viên đá thường
phân bố không đều, mà tạo thành các sọc hoặc đám màu. Sắt cũng thường
xuyên có mặt trong emơrôt và làm giảm sự phát quang của đá. Chỉ số chiết
suất 1,576 - 1,582; lưỡng chiết 0,006; phổ hấp thụ: 6835, 6896, 6620,
6460, 6370, 6300, 5800, 4774, 4725;
- Ngọc
lục bảo phát quang màu đỏ, và dưới kính lọc Chelsea cũng cho màu đỏ. Sự
phát quang này có thể bị giảm đi khi có mặt củ Fe, và có thể không phát quang, đặc tính quang học: một trục âm.
- Thông
thường emơrôt chứa các bao thể tự nhiên như: bao thể lỏng với bọt khí và
các bao thể cứng khác. Những bao thể đó là chứng cứ cho nguồn gốc tự nhiên
của viên đá so với loại tổng hợp và mô phỏng. Bao thể rắn trong emơrôt:pyrit,
sylvin, parisit (một khoáng vật đất hiếm), bao thể tinh thể âm định hướng
song song với trục của tinh thể. Đặc
biệt trong emơrôt hay có các màng sương nên người ta có tên gọi cho loại
này là "emơrôt vườn cảnh" .[2]
·
Colombia là nước sản xuất ngọc lục bảo quan trọng nhất thế
giới, chiếm 60% lượng sản xuất của thế giới với 6 triệu cara trong năm 1995, gồm các mỏ
Chivor, Muro, Peña Blanca và Coscuez. Không chỉ dẫn đầu về số lượng, ngọc từ
Columbia cũng dẫn đầu về chất lượng. Ngọc lục bảo từ Columbia nói chung là tinh
khiết hơn các ngọc có nguồn gốc khác.
·
Các nước sản xuất ngọc lục bảo quan trọng nhất:
Colombia Chivor, Muzo, Peña Blanca et de Coscuez 60% -Zambia 15% -Brasil Nova Era 12%
-Nga Ural 4%- Zimbabwe
Sandawana 3%- Madagascar 3%.
-Hiện tại Việt Nam chưa phát hiện được emơrôt, nhưng các dấu
hiệu địa chất ở một số vùng có thể cho phép phát hiện emơrôt trong tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét