Ngày nay, Ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện nói về Ma, nhưng cũng không thể kết luận được là có Ma.
Qua cái nhìn của Văn hóa và Tôn giáo Việt Nam, thì con
người gồm có một phần xác và một phần hồn. Khi phần xác chết thì phần hồn
sẽ lìa khỏi xác và phần này được gọi là linh hồn. Nếu linh hồn đó không có cơ
hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ, mà còn vương vất ở những nơi có liên quan đến họ
khi còn sống, thì từ ngữ bình dân thường gọi là : Ma, Hồn ma,
Quỷ, Cô hồn...
Ma hay Hồn ma, là một khái niệm trừu tượng, trên thực
tế, khi nói đến ma người ta thường diễn tả thấy một dáng người, trắng bạc, hay
một cái bóng lờ mờ, hoặc một đống đen thùi lùi, còn chỗ ở của ma là những ngôi mộ,
nhưng ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ. Theo quan điểm một
số người nói là : chỉ có người có duyên với Ma thì mới có thể nhìn thấy
được Ma hay những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có
thể thấy và nói chuyện được với Ma.
Một số khác cho rằng Ma có thể biết được tất cả những
gì người sống nghĩ và các việc đã, đang và sắp xảy ra như kết quả xổ số, đồng
thời cũng có khả năng tác nhập xác của người sống như hiện tượng lên đồng, tác
động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống
ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng
động, rung cây, xô lệch bàn ghế... Đại đa số người ta chỉ nói : Ma chỉ nhát
người chứ không hại người. Những người thường hay tin có Ma là phụ nữ, trẻ em,
người già, sống ở vùng miền quê.
Ngày nay, Ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những
câu chuyện nói về Ma, nhưng cũng không thể kết luận được là có Ma. Sự bí ẩn này
còn bị hạn chế trong tầm hiểu biết của con người. Các nhà cận tâm lý học có rất
nhiều nghiên cứu về hiện tượng ma quỷ nhưng vẫn chưa có khẳng định khoa học
nào.
Theo các giả thuyết khoa học Ma có thể là do các sóng hạ âm gây ra, gió biển mạnh thổi nhanh dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ tạo ra các sóng hạ âm được cho là nguyên nhân gây ra hiện tượng nghe tiếng ma ở các nơi này.
Theo các giả thuyết khoa học Ma có thể là do các sóng hạ âm gây ra, gió biển mạnh thổi nhanh dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ tạo ra các sóng hạ âm được cho là nguyên nhân gây ra hiện tượng nghe tiếng ma ở các nơi này.
Các nhà khoa học còn có giả thuyết: Mỗi con người
chúng ta đều phát ra một từ trường có tần số dao động riêng, khi ta chết đi,
nguồn sóng từ trường vẫn tồn tại. Khi có một ai đó có tần số phù hợp, sẽ kích
thích từ trường này, làm cho người xung quanh nơi đó thấy lại những cảnh sinh
hoạt trước đây của người chết.
Trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường dùng các
loại bùa chú, thánh giá, máu chó, tỏi, củ hành, cây dâu, cây đồng đình... để
trừ ma, nhưng đôi khi các vật này không tác dụng gì với Ma mà họ cũng chẳng
giải thích được tại sao Ma lại không sợ. Các thầy ngải dùng linh hồn, thường là
chết oan, để trù ếm và luyện các các loại ngải có tác dụng hại người.
Mỗi quốc gia đều có những huyền thoại về Ma khác nhau,
do đó Ma cũng trở thành đa dạng. Thí dụ như ở Việt Nam có ma da, ma le,
ma gà, ma lai, ma trơi, ma không đầu, ma lưỡi dài, ma một mắt, ma cổ dài...Ở
phương Tây thì có ma sói, ma cây, ma cà rồng.
Theo Phật giáo, Ma gọi đúng hơn là ngạ quỷ, là
một trong lục đạo luân hồi, xếp trên súc sanh và địa ngục. Loài ngạ quỷ có hai
nơi ở, một là nước Diêm La của nó, hai là sống trên dương gian cùng với người,
vì vậy người ta hay nói đi đêm có khi gặp quỷ. Cuốn Petavatthu (Peta = Quỹ +
vatthu = Truyện) là quyển sách thứ bảy trong Khuddaka Nikaya…
… Khuddaka Nikàya là quyển thứ năm của bộ Kinh Tạng (Sutta Pitaka). Bộ kinh này gồm có : Trường Bộ (Digha Nikaya), Trung Bộ (Majjhima
Nikaya), Tương Ưng Bộ (Samyutta
Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara
Nikaya), và Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaya).
Con người được coi như một tiểu thiên địa, một vũ trụ
thu nhỏ. Vũ trụ bao la có vô số hệ mặt trời có sự sống giống như trái đất. Một
hệ mặt trời mà có 1 hành tinh có sự sống có thể tạm gọi là Tam Giới.
Trong ABHIDHAMMA chương 10 có nói về Tam Giới và nó có
31 cõi được phân loại như sau: 11 cõi dục giới, 16 cõi sắc giới, 4 cõi vô
sắc giới. Mỗi cõi có cấu tạo vật chất hoàn toàn khác nhau. Tiểu Thế Giới gồm
1.000 cái Tam Giới, Trung Thế Giới gồm 1.000 Tiểu Thế Giới, Đại Thế Giới
gồm 1.000 Trung Thế Giới. Còn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới là vô tận.
Tam giới phát triển qua 4 giai đoạn : Thành,
Trụ, Hoại, Không. Một chu kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không của Tam Giới gọi là Trụ
Kiếp, 4 Trụ Kiếp được gọi là Đại Kiếp. Các dạng sống trên Tam Giới thường khởi
đầu bằng sự Hóa Sanh khi hội đủ Duyên hay điều kiện. Sau đó mới có Thai Sanh,
Noãn Sanh. Một năm thế gian tính tương đối là 365 ngày.
Dục giới gồm có 11 cõi : 4 cõi khổ và 7 cõi thiện dục
giới như sau :
1. Ðịa Ngục (Niraya): Cõi này chỉ có mọi sự thống khổ chứ không có sự an vui, nơi mà các chúng sinh Tự Trừng Phạt do các Ác Nghiệp đã tạo. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
1. Ðịa Ngục (Niraya): Cõi này chỉ có mọi sự thống khổ chứ không có sự an vui, nơi mà các chúng sinh Tự Trừng Phạt do các Ác Nghiệp đã tạo. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
2. Ngạ Quỹ (Pettivisaya): Chúng không phải là ma quỹ
vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có
cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà
dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa. . . Cõi khổ có tuổi thọ không
nhất định.
3. Súc Sanh (Tiricchānayoni): Các sinh vật đi ngang,
bò đi, không đi thẳng như người, còn gọi là Bàng sanh, gần như là tất cả sinh
vật bình thường trừ con người. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
4. A-Tu-La (Asurakāya): Asura nghĩa là những vị không
có hoan lạc hay không chói sáng. Những chúng sanh này rất hung dữ, hay gây gổ.
Loại A-Tu-La sanh ở đây không giống với loại A-Tu-La chư thiên chuyên gây chiến
với chư thiên và sống ở cõi Tam Thập Tam Thiên. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất
định.
5. Cõi người (Manussa): những người có tâm cao thượng,
do đó phải hiểu rằng được làm người là rất khó, tất cả mọi đứa trẻ bình thường
được sinh ra đều là những thiên thần, chính cuộc sống và những người xung quanh
biến chúng thành quái dị, con người là cái gì đó rất thiêng liêng và cao quý.
6. Tứ Thiên Vương (Cātummahārājika): đây là cõi thấp nhất trong các cõi chư thiên. Tuổi thọ 9.000.000 tuổi người. Dưới nó còn có các chư thần thấp hơn như sơn thần, thổ địa, thánh mẫu . . . (thường 1 ngày của họ bằng 1 tháng, 1 năm hoặc hơn tùy theo tầng cao hay thấp)
6. Tứ Thiên Vương (Cātummahārājika): đây là cõi thấp nhất trong các cõi chư thiên. Tuổi thọ 9.000.000 tuổi người. Dưới nó còn có các chư thần thấp hơn như sơn thần, thổ địa, thánh mẫu . . . (thường 1 ngày của họ bằng 1 tháng, 1 năm hoặc hơn tùy theo tầng cao hay thấp)
7. Tam Thập Tam Thiên (Tāvatimsa): Ðế Thích (Magha) cư
ngụ ở đây. Sở dĩ gọi như vậy vì theo tích truyện có 33 vị dưới sự hướng dẩn của
Ðế Thích đã làm những việc thiện và được tục sinh tại đây. Tuổi thọ 36.000.000
tuổi người.
8. Dạ Ma Thiên (Yāma): Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Nơi đây mọi đau khổ đều được trừ diệt. Tuổi thọ 144.000.000 tuổi người.
8. Dạ Ma Thiên (Yāma): Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Nơi đây mọi đau khổ đều được trừ diệt. Tuổi thọ 144.000.000 tuổi người.
9. Ðâu Suất Ðà Thiên (Tusita): những vị sống sung
sướng. Theo tục truyền, vị Bồ Tác tương lai (Di Lặc) đang sống tại đây và chờ
cơ hội thuận tiện để tái sinh làm người và thành Phật. Tuổi thọ 576.000.000
tuổi người.
10. Hóa Lạc Thiên (Nimmānarati): những vị sống hoan
lạc trong những lâu đài tự tạo ra. Tuổi thọ 2.304.000.000 tuổi người.
11. Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranimmitavasavatti): những
vị đem dưới quyền của mình các vật do các vị khác đã hóa hiện. Tuổi thọ
9.216.000.000 tuổi người.
Sắc Giới gồm 16 cõi:
Cõi Sơ Thiền Sắc Giới có:
Phạm Chúng Thiên (Brahmapārisajjā): đây là cảnh giới
thấp nhất. Những vị sanh ra ở đây là đồ chúng của Ðại Phạm Thiên (Mahābrahmā). Tuổi
thọ 1/3 Trụ Kiếp.
Phạm Phụ Thiên (Brahmapurohitā): những vị sanh ra ở
đây sẽ là phụ tá cho Ðại Phạm Thiên. Tuổi thọ 1/2 Trụ Kiếp.
Ðại Phạm Thiên (Mahābrahmā): các vị sanh ở đây có hình
thái đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc và sông lâu hơn các vị sinh trong 2 cảnh trời
trên. Tuổi thọ 1 Trụ Kiếp.
Cõi Nhị Thiền Sắc Giới có :
Thiểu Quang Thiên (Parittābhā). Tuổi thọ 2 Đại Kiếp.
Vô Lượng Quang Thiên (Appamānābhā). Tuổi thọ 4 Đại
Kiếp.
Quang Âm Thiên (Ābhassarā). Tuổi thọ 8 Đại Kiếp.
Cõi Tam Thiền Sắc Giới :
Thiểu Tịnh Thiên (Parittasubhā). Tuổi thọ 16 Đại Kiếp.
Vô Lượng Tịnh Thiên(Appamanāsubhā). Tuổi thọ 32 Đại
Kiếp.
Biến Tịnh Thiên (Subhakinhā). Tuổi thọ 64 Đại Kiếp.
Cõi Tứ Thiền Sắc Giới có:
Quảng Quả Thiên (Vehapphalā). Tuổi thọ 500 đại kiếp.
Vô Tưởng Thiên (Asaññasattā). Tuổi thọ 500 đại kiếp.
Vô Phiền Thiên (Avihā). Tuổi thọ 1.000 đại kiếp, nhóm
cõi Phước Sanh Thiên.
Vô Nhiệt Thiên (Atappā). Tuổi thọ 2.000 đại kiếp, nhóm
cõi Phước Sanh Thiên.
Thiện Hiện Thiên (Sudassā). Tuổi thọ 4.000 đại kiếp,
nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Thiện Kiến Thiên (Sudassì). Tuổi thọ 8.000 đại kiếp,
nhóm cõi Phước Sanh Thiên.
Sắc Cứu Kính Thiên (Akaniṭṭhā). Tuổi thọ 16.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh
Thiên.
Vô Sắc Giới gồm 4 cõi.
Không Vô Biên Xứ Thiên (Ākāsānañcāyatanabhūmi). Tuổi
thọ 20.000 đại kiếp.
Thức Vô Biên Xứ Thiên (Viññānancāyatanabhūmi). Tuổi
thọ 40.000 đại kiếp.
Vô Hữu Xứ Thiên (Ākiñcāññāyatanabhūmi). Tuổi thọ
60.000 đại kiếp.
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.
(Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi). Tuổi thọ 84.000 đại kiếp.
Theo lời của Đức Phật Thích Ca thì có thể Thiền Tuệ
đạt đến Diệt Thọ Tưởng Định, lúc đó sẽ là Vô Sinh – Vô Diệt, thoát khỏi sinh tử
luân hồi.
Ngạ Quỷ là ai ? Nhà họ ở đâu ? Họ sống
bằng cách nào ?
Trong cõi khổ thứ hai có tuổi thọ không nhất định của
Dục giới có miêu tả về Ngạ Quỷ (Pali gọi là Pettivisaya). Chúng không phải là
ma quỷ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng
không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác
nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa.
Từ Pettivisaya trong tiếng Pali được định nghĩa như
sau:
Petā có nghĩa là cách ly sự an lạc, xuất nguồn từ câu:
Sukhasamussayato Pākaṭṭho entīti.
Petti là Hội chúng của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu:
Petānaṃ samūho.
Pettivisayo là chỗ ở, chỗ sanh của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Pettiyā visayo.
Pettivisayo là chỗ ở, chỗ sanh của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Pettiyā visayo.
Ngạ quỷ cũng có nhiều loại, Ngạ quỷ nhỏ, Ngạ quỷ lớn,
Ngạ quỷ biến hóa thành hình ảnh đẹp hoặc hình ành xấu. Về hình đẹp thì cho thấy
dạng, nam, nữ, đạo sĩ, Sa di, Tỳ khưu. Còn xấu thì cho thấy là trâu, bò,
voi, chó với hình dạng kinh khiếp như có đầu to, mắt lồi và có khi không
hiện rõ...
Trong các loài Ngạ quỷ cũng có những loại phải chịu
đói khát khổ sở, ăn những cặn bả được quăng bỏ ở những nơi dơ bẩn hay ăn
đàm, mũ, nước miếng và phẩn ...
Phẩm Lokapaññatti có ghi rằng: " Yattha
petanagare petamahiddhiko sabbapetānaṃ
issariyādhipaccankaroti".
Rừng Vijjhātīavī là kinh thành của loài Ngạ quỷ, và
Ngạ quỷ Mahiddhika là vị chúa tể cai trị tất cả các Ngạ quỷ khác.
Đây là 12 loại Ngạ quỷ được điển hình trong phẩm
Lokapaññatti và Gacchatidīpanī:
1- Vantāsapetā hay Vantāsa: Ngạ quỷ ăn nước miếng,
đàm, vật nôn mữa. Nguyên nghĩa Pali : Vantaṃ asati
bhakkhatīti = Vantāso.
2- KuṇApāsapetā
hay Kuṇapāsa: Ngạ
quỷ ăn tử thi người hoặc thú. Nguyên nghĩa Pali: Kunapaṃ arati dakkhatīti = Kuṇapāso.
3- Gūthakhādakapetā hay Gūthakhādaka: Ngạ quỷ ăn phẩn.
Nguyên nghĩa Pali: Gūthaṃ khādatīti
= Gūthakhadako.
4- Aggijālamukhapetā hay Aggijālamukha: Ngạ quỷ thường
có lửa trong miệng. Nguyên nghĩa Pali : Aggijālamukhatā etassāti =
Aggījālamukho.
5- Sucimukhapetā hay Sūcimukha: Ngạ quỷ có miệng bằng
lổ kim. Nguyên nghĩa Pali : Sūcipamānaṃ sukhaṃ etassāti = Sūcimukho.
6- Taṇhaṭṭikapetā hay Taṇhāhaṭṭita: Ngạ quỷ thường bị ái bức hại cho đói khát. Nguyên
nghĩa Pali : Taṇhāya aṭṭhito pūḷitoti = Taṇhāhaṭṭito.
7- Sunijjhāmakapetā hay Sunijjhāmaka : Ngạ quỷ có thân
đen như than. Nguyên nghĩa Pali: Suṭṭhu
nissesena jhāno= Sunijjhāmo, Sunijjhāmo viyāti= Sunijjhāmako. Cây bị lửa đốt
hết cành, lá, thân, chỉ còn lại gốc cây bị cháy gọi là Sunijjhāmaka.
8- Suttaṅgapetā hay
Suttaṅga: Ngạ quỷ có móng tay nhỏ, móng
chân dài và bén nhọn như dao. Nguyên nghĩa Pali : Sattasadisaṃ aṅgaṃ etassāti = Suttaṅgo.
9- Pabbataṅgapetā hay
Pabbataṅgo: Ngạ quỷ
có thân cao lớn bằng quả núi. Nguyên nghĩa Pali: Pabbatappamaṇo aṅgo etassāti
= Pabbataṅgo.
10- Ajagaraṅgapetā
hay Ajagaraṅga: Ngạ quỷ
có thân giống như con trăn. Nguyên nghĩa Pali: Ajagarasadiso aṅgo etassāti = Ajararaṅgo.
11- Vemānikapetā hay Vemānika: Ngạ quỷ bị cảm thọ khổ
lúc ban ngày, nhưng ban đêm được thọ hưởng lạc trong Thiên cung. Nguyên nghĩa
Pali : Vimāne nibbattoti = Vemāniko.
12- Mahiddhikapetā hay Mahiddhika: Ngạ quỷ có Đại thần
lực. Nguyên nghĩa Pali : Mahatiyā iddhiyā samannāgatoti = Mahiddhiko.
Petavatthu và Aṭṭhakathā, ṭīkā cũng có ghi bốn loại Ngạ quỷ thường được kể trong
chủ đề của họ như là:
1- Parehidattaṃ upanissāya
jīvatīti = paradattupajīviko. Vì sống phải dựa vào người khác nuôi, nên
người ta đặt tên nó là Ngạ quỷ Paradattupajīvika.
2- Khudā ca pīpāsā ca = Khuppipāsā (Đói và khát).
KhuppiPāsāhi pilito = KhuppiPāsiko(sự đói khát). Khuppipāsika là Ngạ quỷ
đói và khát.
3- Nijjhāmena taṅhā etassāti
= Nijjhāmataṇhiko.
Vì có sự thèm ái dục hay sự đói khát thường xuyên và liên hệ từ lửa cháy
trong miệng cho nên Ngạ quỷ này được gọi là Nijjhāmataṇhika.
4- Ngạ quỷ Kaḷakañcika
này khỏi phải định nghĩa, vì là tên của Atula, như trong Pātheyyavagga aṭṭhakathā có ghi rằng: "Kālakañcikāti tesaṃ asurānaṃ nāmaṃ". Gọi là Kālakañcika này là tên của Atula thuộc
loài Ngạ quỷ.
Vài loài Ngạ quỷ mà Bồ-tát không sanh vào là:
Vài loài Ngạ quỷ mà Bồ-tát không sanh vào là:
1- Ngạ quỷ KhuppiPāsika
2- Ngạ quỷ Nijjhāmataṇhika
3- Ngạ quỷ Kālakañcika
Ngoài các loại Ngạ quỷ đã kể trên, còn có nhiều loại
khác, như Ngạ quỷ Suciloma là loại Ngạ quỷ có lông như kim, Ngạ quỷ
Kharaloma là Ngạ quỷ có lông thô, Ngạ quỷ Ghanakha là Ngạ quỷ có móng tay và
móng chân dài.
Theo Lakkhaṇasamyutta
có 21 loại Ngạ quỷ được trình bày như sau:
1. Aṭṭhisaṅkhasikapetā: Ngạ quỷ có xương dính với nhau thành từng
khúc, nhưng không có thịt.
2. Maṃsapesikapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng mãnh, nhưng không có xương.
3. Maṃsapiṇḍapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng cục, thành khối.
4. Nicchaviparisapetā: Ngạ quỉ không có da.
5. Asilomapetā: Ngạ quỷ có lông như gươm.
6. Sattilomapetā: Ngạ quỷ có lông như giáo.
7. Usulomapetā: Ngạ quỷ có lông như cây tên.
8. Sūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim.
9. Dutiyasūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim, loại thứ hai.
10. Kumbhaṇḍapetā: Ngạ quỷ có hòn dái rất to.
11. Gūthakūpanimuggapetā: Ngạ quỷ chìm ngập trong phẩn.
12. Gūthakhādakapetā: Ngạ quỷ ăn phẩn.
13. Nicchavitakipetā: Ngạ quỷ cái không có da.
14. Duggandhapetā: Ngạ quỷ có mùi hôi thối.
15. Ogilinīpetā: Ngạ quỷ có thân như cây đuốc, lửa.
16. Asisapetā: Ngạ quỷ không có đầu.
17. Bhikkhupetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu.
18. Bhikkhunīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu ni.
19. Sikkhāmānapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống học nữ.
20. Sāmaṇerapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di.
21. Sāmaṇerīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di ni.
2. Maṃsapesikapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng mãnh, nhưng không có xương.
3. Maṃsapiṇḍapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng cục, thành khối.
4. Nicchaviparisapetā: Ngạ quỉ không có da.
5. Asilomapetā: Ngạ quỷ có lông như gươm.
6. Sattilomapetā: Ngạ quỷ có lông như giáo.
7. Usulomapetā: Ngạ quỷ có lông như cây tên.
8. Sūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim.
9. Dutiyasūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim, loại thứ hai.
10. Kumbhaṇḍapetā: Ngạ quỷ có hòn dái rất to.
11. Gūthakūpanimuggapetā: Ngạ quỷ chìm ngập trong phẩn.
12. Gūthakhādakapetā: Ngạ quỷ ăn phẩn.
13. Nicchavitakipetā: Ngạ quỷ cái không có da.
14. Duggandhapetā: Ngạ quỷ có mùi hôi thối.
15. Ogilinīpetā: Ngạ quỷ có thân như cây đuốc, lửa.
16. Asisapetā: Ngạ quỷ không có đầu.
17. Bhikkhupetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu.
18. Bhikkhunīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu ni.
19. Sikkhāmānapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống học nữ.
20. Sāmaṇerapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di.
21. Sāmaṇerīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di ni.
Nhận thấy sự khổ đau cùng tột của loài ngạ quỷ mang
hình thù quái vị, bởi do nghiệp chướng, tham lam bòn sẻn đời trước mà chiêu cảm
quả báo đời này. Ðức Phật với tâm từ bi vô tận đã thuyết ra nhiều pháp môn
phương tiện để cứu độ. Một trong các pháp môn phương tiện để cứu độ loài ngạ
quỷ đó là pháp chẩn tế cô hồn.
Trong pháp nghi này, Ðức Phật đã thuyết ra rất nhiều
chơn ngôn thần chú, như Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Tịnh nghiệp chướng chơn
ngôn, Phá địa ngục chơn ngôn, Khai yết hầu chơn ngôn, Biến thực chơn ngôn, Biến
thủy chơn ngôn...để chỉ cho họ thấy được đâu là nẻo chánh đường tà, khiến họ
dứt trừ được tâm tham lam bỏn sẻn, hồi tâm hướng thiện một lòng tu hành, được
vĩnh viễn thoát hẳn các sự khổ não của cảnh giới ngạ quỷ.
Ðấy chính là tác dụng và mục đích của pháp chẩn tế cô hồn, mà trong các chùa, sau khi kết thúc bất kỳ một pháp sự nào, đều có tổ chức nghi thức cúng cô hồn này…
Ðấy chính là tác dụng và mục đích của pháp chẩn tế cô hồn, mà trong các chùa, sau khi kết thúc bất kỳ một pháp sự nào, đều có tổ chức nghi thức cúng cô hồn này…
… Thập loại cô hồn được phân loại như sau :
1. Thủ hộ quốc giới: Loại oan hồn vị quốc vong thân;
2. Phụ tài khiếm mạng: Loại oan hồn chết vì trái chủ
oan gia, trụy thai, sẩy thai;
3. Khinh bạc Tam Bảo: Loại oan hồn vì tạo nghiệp bất
hiếu, phụ nghịch, vô đạo;
4. Giang hà thủy nịch: Loại oan hồn chết sông, chết
biển;
5. Biên địa tà kiến: Loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo
lánh xa xăm;
6. Ly hương khách địa: Loại oan hồn phiêu bạc tha
hương, chết đường, chết bụi;
7. Phó hỏa đầu nhai: Loại oan hồn chết vì tự tử, trầm
mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém;
8. Ngục tù trí mạng: Loại oan hồn chết vì bị tra tấn,
khổ nhục trong lao tù;
9. Nô tì kết sử: Loại oan hồn chết vì bị nô lệ, hành
hạ, đày đọa;
10. Manh mung ám á: Loại oan hồn lúc sống bị đui, què,
câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.
(Lược trích trong Tinh Hoa Phật Học của TS Huệ Dân)
Nguồn: http://www.daophatngaynay.com/
Hay lắm thưa thầy . :) Xin thầy cứ phát huy phong độ hì hì .
Trả lờiXóap/s chúc thầy an vui .
Thầy ơi , sưu tầm tiếp đi thầy :)
Trả lờiXóaCảm ơn anh.
Trả lờiXóachờ lâu quá à hic :(
Trả lờiXóaSao mấy bài cây chuối thầy xóa rùi ? , chưa có bài mới nữa hic .
Trả lờiXóaLoạt bài cây chuối đã làm xong nhiệm vụ rồi. Không thể ở lại trên đời nữa. Đón xem bài khác nhe.
Trả lờiXóaChú phayant có thể vui lòng cho cháu xin địa chỉ yahoo được không ạ!
Trả lờiXóaNam Mô Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề
Xin địa chỉ thôi mà phải thỉnh Phật Mẫu Chuẩn Đề, làm sao tui chịu nổi ông ơi!
Trả lờiXóaĐịa chỉ gmail được hông?
xbinh95@gmail.com
Chúc bạn vui nhe.